Thứ Hai, 13 tháng 12, 2010

Treasury bond

Chứng khoán chính phủ
(sưu tầm từ http://caohockinhte.vn/forum/showthread.php?t=4791)

Tại sao vậy? Đây là phản ứng tự nhiên của thị trường tài chính thế giới. Tâm lý lo sợ bị lỗ nếu cứ tiếp tục giữ đồng Yen hoặc trạng huống không an tâm trước một bối cảnh tài chính bấp bênh làm cho người đầu tư, nhất là người Nhật, đi tìm một chỗ ẩn náu khác, họ chiếu cố tập trung vào những công cụ an toàn hơn, lúc đó các T- notes và T- bonds của Mỹ là sản phẩm thay thế tuyệt vời. Khi người ta đổ xô đi mua những trái phiếu đó, điều tất yếu là giá của chúng sẽ lên. Trong mua bán trái phiếu, giữa giá cả mua bán và lãi suất thực lợi suất hiện hành - current yield của đầu tư trái phiếu diễn ra đối nghịch. Do vậy mà khi giá trái phiếu lên trường hợp này là T- bond thì lãi suất sẽ hạ. Câu chuyện có vẻ đơn giản, mà không, nó kích thích sự xét đoán của ta đấy.
Ngày nay, tại các nền kinh tế hội nhập, trái phiếu của chính phủ không chỉ đóng vai trò điều tiết vĩ mô theo cách truyền thống mà còn là công cụ huy động vốn vượt biên giới một quốc gia rất được các nhà nước ưa chuộng. Riêng các trái phiếu kho bạc Mỹ từ lâu còn được nhiều nước, tổ chức và cá nhân sử dụng như một phương tiện dự trữ. Do lịch sử tạo lập và điều hành ổn định, chúng có một giá trị tham khảo rất cao.

Chứng khoán do chính phủ Mỹ phát hành

Đơn vị phát hành chứng khoán nợ lớn vượt trội tại Mỹ là chính quyền liên bang. Khoản vay mượn cấp nhà nước này có một ảnh hưởng quan trọng đối với thị trường chứng khoán nói riêng và cả nền kinh tế Mỹ nói chung.

Loại chứng khoán mà chính phủ Mỹ có nghĩa vụ trực tiếp direct obligations được gọi là "Treasuries" tương tự công khố phiếu, viết tắt là T. Những loại này bao gồm trái phiếu ngắn hạn T-bills, trái phiếu trung hạn T- notes và trái phiếu dài hạn T- bonds. Các trái phiếu dạng "T" này của chính phủ được xem là phương tiện đầu tư có độ an toàn cao nhất đối với mọi giới đầu tư.

Xếp hạng dưới một chút là các trái phiếu đại diện hay trung gian của chính phủ được gọi là "agencies", bao gồm một lượng lớn chứng khoán do tổ chức đại diện thuộc quyền nhà nước Mỹ hoặc các tổ chức tài chính tư được chính phủ bảo trợ. Các trái phiếu trung gian có loại được chính phủ Mỹ bảo đảm ở cấp nhà nước, nhưng đa số là không.

Chứng khoán được chính phủ phát hành luôn được xem là loại có độ tin cậy cao nhất trên các thị trường nợ. Người cầm trái phiếu chính phủ được xem là không có rủi ro về tín dụng. Các chứng khoán kho bạc nhà nước của Mỹ, chẳng hạn, được bảo đảm bằng nghĩa vụ trả nợ trực tiếp từ chính phủ liên bang nên sẽ không có chuyện bội tín. Trong khi đó, hầu hết các chứng khoán cơ quan liên bang không phải là loại mà chính phủ cam kết về nghĩa vụ nợ trực tiếp dù vẫn là thứ có niềm tin cao, nhưng dẫu sao chúng cũng không được xem là tuyệt đối như loại "T" được.

Trái phiếu ngắn hạn

Trái phiếu ngắn hạn T- bills là những giấy nợ trực tiếp của chính phủ có thời gian đáo hạn là một năm hay ít hơn. T- bills ngày nay được phát hành với các đáo hạn như 91 ngày 13 tuần hay 3 tháng, 182 ngày 26 tuần hay 6 tháng và 52 tuần 1 năm.

Loại này chỉ được phát hành theo hình thức bút toán ghi sổ book - entry form, không có các chứng chỉ cầm tay. Việc chuyển đổi sở hữu được thực hiện bằng thể thức ghi sổ nhật ký. Mệnh giá tối thiểu của T- bills là 10.000USD.

T- bills được phát hành lần đầu và mua bán theo một mức chiết khấu trên giá mặt mệnh giá. Do vậy mà chúng còn được gọi là loại "chứng khoán chiết khấu". Khi đáo hạn, T- bill được thanh toán theo giá trị ghi trên mặt trái phiếu. Sự chênh lệch giữa giá trị mặt và chiết khấu được xem như tiền lãi. Do T- bills không trả lãi định kỳ, chúng được mệnh danh là "chứng khoán không mang lãi" non- interest bearing securities.

T- bills được phát hành theo phương thức đấu giá cạnh tranh. Lượng đấu giá cạnh tranh mua tối thiểu trong đợt phát hành mới là 500.000 USD. Tuy nhiên chúng cũng có thể được mua theo mức giá không cạnh tranh non- competitive bid. Người đầu tư đề nghị mua với mức giá không cạnh tranh sẽ trả theo giá trung bình của các giá bỏ thầu cạnh tranh hợp lệ tại cuộc đấu giá đó, và đề nghị đặt mua sẽ được cam kết thỏa mãn, nhưng chỉ giới hạn tối đa lượng mua được là 500.000USD thôi.

Trái phiếu trung hạn

Trái phiếu trung hạn T- notes được phát hành theo mệnh giá tối thiểu là 1.000USD và tối đa là 1 triệu USD, có thời gian đáo hạn từ 1 năm đến tối đa là 10 năm. T-notes được trả lãi mỗi 6 tháng một lần. Người đầu tư có thể chọn lựa cách để giữ T-notes, hoặc họ nhận các chứng chỉ trái phiếu ký danh đầy đủ fully registered certificates hoặc, nếu muốn, họ có thể thực hiện việc đăng ký sở hữu bằng bút toán ghi sổ được quản lý bằng máy điện toán book- entry form. Đặc biệt các T- notes đáo hạn dưới năm năm được ấn định mệnh giá phát hành tối thiểu là 5.000USD.

Vào thời điểm đáo hạn T- notes được hoàn trả bằng tiền mặt theo mệnh giá ghi trên trái phiếu. Chúng cũng có thể được điều chỉnh lại mức trả lãi khi lãi suất chung của thị trường xuống thấp dựa vào thể thức lập quỹ hoàn trái refunding - phát hành trái phiếu mới lãi suất thấp hơn theo quy định của luật pháp và tập quán tài chính. Trái phiếu trung hạn có thể mua tại các ngân hàng, các công ty chứng khoán hoặc có thể liên hệ trực tiếp với Ngân Hàng Dự Trữ Liên Bang. Các T- notes được mua bán nhộn nhịp tại các thị trường thứ cấp.

Trái phiếu dài hạn

Trái phiếu dài hạn T- bonds chiếm phần nhỏ nhất trong cơ cấu nợ huy động bằng các chứng khoán chính phủ. Trái phiêu dài hạn có thời gian đáo hạn tối thiểu là 10 năm và có thể dài đến 30 năm. T- bonds được phát hành với mệnh giá từ 1.000USD đến 100.000USD, lãi suất được trả mỗi 6 tháng một lần. Cách bán cũng giống như T- notes, theo hình thức các chứng chỉ ký danh đầy đủ cả lãi định kỳ cũng được trả bằng chi phiếu cho chính tên người chủ trái phiếu hoặc bút toán ghi sổ vẫn là loại ký danh đầy đủ.

Các T- bonds, do có thời giàn đáo hạn quá dài, thường hay được ghi thêm điều kiện thu hồi. Điều này cho phép chính phủ có thể mua lại chứng khoán đó ở mệnh giá sau một thời gian được xác định trước, ví dụ từ năm thứ 20 trở đi chẳng hạn. Thời gian này thường được cân nhắc đủ dài để tạo hấp dẫn cho việc tiếp thị phát hành đạt tính khả thi. Các chứng khoán nợ của chính phủ Mỹ luôn được thu hồi theo mệnh giá; khác với các trái phiếu công ty thường áp dụng việc thu hồi với một khoản ưu đãi premium giá cao hơn.

Trái phiếu không lãi suất loại có gốc từ trái phiếu chính phủ

Trái phiếu phi lãi suất zero coupon bonds trong "gia đình" trái phiếu chính phủ là một loại chứng khoán được sinh ra từ sản phẩm gốc là trái phiếu chính phủ, nên chúng còn được gọi là các "biên nhận trái phiếu chính phủ" Treasury receipt.

Từ năm 1985, chúng cũng còn biết đến dưới cái tên ghép STRIPS viết tắt của: Separate Trading of Registered Interest and Principal of Securities - công cụ giao dịch thứ cấp tiền lãi và tiền gốc riêng biệt, đây là một loại phái sinh trong TTCK.

Các công ty môi giới và kinh doanh chứng khoán của các T- bonds sau đó gởi vào các ngân hàng rồi bán các "receipts" tương ứng riêng cho tiền gốc và tiền lãi. Các trái phiếu phi lãi suất như vậy được bảo đảm bằng tài sản thế chấp là các trái phiếu chính phủ trong một tài khoản trung gian escrow do một ngân hàng giám hộ nắm giữ vì quyền lợi của người đầu tư mua receipts. Quá trình này được chế định bằng luật theo nội dung "ủy thác quản lý tài sản", luật Mỹ gọi là "trust".

Các trái phiếu phi lãi suất hay "biên nhận", hoặc STRIPS được mua bán dưới dạng bút toán ký danh đầy đủ. Loại chứng khoán "sản phẩm phụ" này đặt giá trị trên nền tảng là các trái quyền mà chính phủ có nghĩa vụ trả nợ trực tiếp, nên việc thực hiện phát hành và mua bán thường do các ngân hàng và các nhà kinh doanh chứng khoán lớn mới có khả năng quán xuyến. Tuy nhiều người nói rằng các chứng khoán phi lãi suất không bị lệ thuộc vào các rủi ro trực tiếp về lãi suất, vì chúng được phát hành bằng một chiết khấu khá sâu và được hoàn trái theo mệnh giá, nhưng trong trường hợp lãi suất ngoài thị trường tăng cao, người đầu tư vẫn bị rủi ro cơ hội. Đặc biệt, bản chất các trái phiếu phi lãi suất các Treasury receipts có độ biến động giá trong thị trướng thứ cấp khá lớn, nhất là các T- receipts càng dài hạn. Nếu có dịp chúng ta có thể tìm hiểu kỹ hơn về các công cụ đầu tư "zéro- coupon bonds".

Thủ tục phát hành trái phiếu mới của chính phủ

Các chứng khoán của chính phủ được miễn áp dụng theo luật chứng khoán liên bang. Việc phát hành không phải lập hồ sơ với SEC Ủy Ban Chứng Khoán và TTCK Hoa Kỳ như trường hợp trái phiếu công ty.

Các trái phiếu ngắn hạn, trung hạn và dài hạn được bán thông qua các cuộc đấu giá định kỳ. Những người có ý định mua sẽ nộp các đề nghị mua tenders hay offers to buy cho Hội đồng Dự trữ Liên bang là những người đóng vai trò điều hành ngân khố Mỹ. Các tổ chức chứng khoán lớn đấu với nhau để mua chứng khoán của đợt đó theo hình thức chào giá cạnh tranh competitive tenders. Các chào giá như vậy sẽ nêu giá và/hoặc lãi suất mà tổ chức đó sẵn sàng mua chứng khoán sắp phát hành.

Như đã đề cập sơ qua trong phần trên, một cá nhân cũng có thể mua trực tiếp các trái phiếu trong các đợt phát hành đấu giá đó bằng cách tham gia một chào mua "không cạnh tranh". Tất cả những người chào mua đó đều được chấp thuận trước, mặc dù lợi suất trái phiếu yield mà họ sẽ nhận chỉ được quyết định sau khi các chào mua cạnh tranh được chấp thuận, và luôn là mức trung bình của các chào mua cạnh tranh đợt đó.

Loại trái phiếu ngắn hạn, T- bills 3 tháng, T- bills 6 tháng, được đấu giá hằng tuần, vào ngày thứ Hai, các T- bills này được phát hành ra vào ngày thứ Năm tuần đó. Loại T- bills một năm được đấu giá mỗi 4 tuần lễ một lần, và thường được tổ chức vào ngày thứ Năm, các trái phiếu sẽ được phát ra vào thứ Năm của tuần lễ kế tiếp.

Các T- notes và T- bonds được đấu giá mỗi quý theo lịch được công bố định kỳ. Như ta đã biết, các T- strips được hình thành trên thị trường giao dịch, ngân khố nhà nước không đứng ra phát hành các loại chứng khoán theo hình thức bóc tách này các STRIPS được gọi một cách hình tượng là stripped form.

Mua bán ở thị trường thứ cấp

Các chứng khoán của chính phủ không được niêm yết tại sàn giao dịch, thay vào đó chúng được mua bán trên thị trường phi tập trung OTC. Loại chứng khoán này chủ yếu được mua bán theo quy mô khối lượng lớn giữa những nhà đầu tư nhân danh tổ chức với nhau.

Cách đăng giá chào của T- bills:
T- bills được nêu giá dựa trên cơ sở một lợi suất chiết khấu. Lãi suất T- bill thể hiện ở phần trăm giá trị ghi trên mặt của chứng khoán đó.

Một chào giá nêu mức 3,50% chẳng hạn, có nghĩa là T- bill sẽ được bán với giá thấp hơn mệnh giá số tiền 3,50% của mệnh giá đó. Đối với một T- bill thời hạn 52 tuần mệnh giá 10.000 USD sẽ có giá bán là 9.650 USD. Trên bảng chào giá của các báo, có hai cột số quan trọng cần biết là "mức thu vào - bid" và "mức bán ra - asked" gọi theo cách của nhà buôn chứng khoán. Một chào giá của T- bill được đọc như sau:

"Đáo hạn tháng 6, bid 3,50%, asked 3,40%"

Như vậy một người đầu tư nào đó nếu muốn đi mua một T- bill mệnh giá 10.000USD đáo hạn tháng 6, thì họ sẽ trả 9.660 USD. Còn nếu họ có T- bill đó và đem đi bán họ sẽ nhận được 9.650 USD. Điều này hợp với lẽ thường: đi mua phải chịu đắt, còn bán thì rẻ hơn.

Chúng ta cũng cần lưu ý lợi suất tương đương gọi là ask yield thực tế của T- bill luôn luôn cao hơn lợi suất chiết khấu discount yield. Ví dụ: Một T- bill 52 tuần 7% với mệnh giá 10.000 USD được mua với giá 9.300 USD. Tiền lãi 700 USD 7% của 10.000 USD đối với người đầu tư phải được hiểu là thu nhập dựa trên vốn thực sự bỏ ra, chỉ 9.300 USD thôi, chứ không phải trên 10.000 USD. Như vậy ask yield sẽ là 7,50% 700 chia cho 9.300. "Ask yield" được để kế bên mức "asked" để người đầu tư tiện so sánh với lãi suất của T- notes va T- bonds hoặc các chứng khoán nợ khác

Cách chào giá của T- notes và T- bonds:
Khác với T- bill, các T- notes và T- bonds được chào trên cơ sở giá tiền, nhưng theo một cách đặc biệt. Giá được chào bán bằng điểm point - một điểm của trái phiếu T- note và T- bond là 10USD 1% của mệnh giá 1.000 - cộng với phần lẻ của một điểm được chia đều cho 32 1/32 của 10 USD hay 1/32% củamệnh giá.

Các T-notes và T-bonds được nêu trên cùng một bảng chào giá. Nhưng để phân biệt, người ta thêm vào ký tự "n" ngay sau thời gian đáo hạn để chỉ loại đó là T-notes. Các bảng thông tin chào giá gồm 5 cột được đăng thường xuyên trên các báo chuyên ngành. Ta có thể khảo sát hai dòng đặc trưng dưới đây của 5 cột đó để xem chúng thông tin những gì?

1
2
3
4
5

Rate
Maturity
Bid
Asked
Change
Ask Yield

91/8

77/8
May 99n

Feb 95 - 00
101 : 24

93 : 26
101 : 28

93 : 30
- 35

- 34
8,81

8,88


- Cột 1 chỉ lãi suất của trái phiếu. Ví dụ "91/8" có nghĩa là 9,125% của 1.000 USD, mỗi năm trái phiếu này cho lãi 91,25 USD.

- Cột 2 chỉ thời gian đáo hạn tháng và năm. Chữ "n" nằm kế 99 cho biết đó là trái phiếu trung hạn "T- note". Theo ví dụ được trích trên đây "May 99n" được hiểu là T- note đáo hạn vào tháng Năm năm 1999.

Một số T- bond trái phiếu dài hạn, trên 10 năm có mang đặc tính có thể được thu hồi lại callable. Trường hợp này trên chào giá sẽ ghi hai niên hạn, niên hạn để trước là năm khả năng thu hồi bắt đầu có hiệu lực và niên hạn ghi sau là năm trái phiếu đáo hạn. Ta lưu ý vào dòng thứ hai của ví dụ trên, ở cột 2, có ghi "Feb 95-00" có nghĩa là T- bonds đáo hạn vào năm 2000, loại có thể thu hồi lại vào tháng Hai năm 1995 trở đi từ 1995 ~ 2000 có thể được thu hồi hoặc không.

- Cột 3 chỉ giá thu vào "bid" và giá bán ra "asked" dựa trên căn bản điểm của trái phiếu hay phần trăm của mệnh giả . Phần số bên phải của dấu hai chấm đại diện cho các nấc giá 1/23 của một điểm trái phiếu 1/32 của 10 USD. Chẳng hạn 101:24 nghĩa là 1.0124/32. Do đó mà giá thu vào của trái phiếu là 10124/32% của mệnh giá 1.000USD tức 1.017,50 USD một trái phiếu.

- Cột 4 chỉ sự thay đổi của giá thu vào của ngày hiện tại so với ngày báo giá kế trước, các số ghi là số nấc 1/32 của một điểm trái phiếu. Ví dụ "- 35" như trên có nghĩa là giá đã giảm đi 35/2 hay 13/32 so với giá thu vào ngày trước đó.

- Cột 5 Asked Yield chỉ lợi suất tương đương mà trái phiếu thực tế nhận được so với tiền mà người đầu tư phải bỏ ra mua tính đến ngày đáo hạn gọi là Yield- to- maturity- YTM. Trong ví dụ trên ta thấy lãi suất tương đương "ask yield" là 8,81 nhỏ hơn lãi suất ghi trên mặt của trái phiếu "rate" 91/8, lý do là vì T- note đã có giá cao hơn mệnh giá người đầu tư phải trả 101:28 hay 1018,75 chứ không phải với 1.000. Người đầu tư đã bỏ ra một số tiền cao hơn nhưng mỗi năm cũng chỉ nhận được tiền lãi y như cũ, do đó trong thực tế tiền lãi họ nhận được có một lợi suất thấp hơn.

Việc chẻ nhỏ các điểm trái phiếu 1/32 trong thị trường chứng khoán và 1/64 trong thị trường futures và options có một ý nghĩa đặc biệt trong khoa học chứng khoán. Nó vừa có công dụng chuẩn hoá theo yêu cầu thông tin, vừa tạo một phần giá trị lẻ thực dụng và hợp lý trong giao dịch, nhất là các giao dịch số lượng lớn. Ngoài ra, phần lẻ như vậy cũng tạo điều kiện cho sự mặc cả, làm cho mua bán dễ xảy ra hơn. Mua bán nhiều hơn cũng có nghĩa là thị trường càng có khả năng thanh khoản: đây là mục đích gần của TTCK.

Để giúp người quan tâm có thêm thông tin, ta cũng nên lưu ý quy ước về số ngày trong năm khi tính toán tiền lời đối với trái phiếu của Mỹ, nhất là khi tính các giá trị lãi tích được accrued interest giữa hai kỳ trả lãi. Các trái phiếu công ty, trái phiếu đô thị T- bills được tính theo năm tròn 360 ngày hay 30 ngày một tháng. Các T- notes và T- bonds được tính theo ngày thực tế theo dương lịch và một năm có cơ sở là 365 ngày. Đây là căn cứ xác định rất hữu ích khi tính toán phần lãi bằng tiền mà người mua trái phiếu phải trả cho người bán trái phiếu cho tới ngày chuyển quyền sở hữu.

Một thực tế có tính truyền thống là thị trường trái phiếu luôn luôn lớn hơn và lớn hơn nhiều lần thị trường cổ phiếu. Đặc biệt tại các thị trường chứng khoán mới hình thành, lượng mua bán chứng khoán nợ chiếm một tỷ trọng rất cao. Tuy nhiên điều đó chỉ hiện thực khi nào thị trường đã có một cơ chế các lãi suất được hiệu chỉnh theo cung cầu, gọi là các lãi suất thị trường interest rates. Lãi suất thị trường sẽ cảm biến khi thị trường tiền tệ đã hoạt động nhịp nhàng, nhà nước có khả năng can thiệp hiệu quả bằng lãi suất hoạt động phát hành trái phiếu chính phủ được thực hiện theo những kỹ thuật và thông lệ có tính cạnh tranh…

Các trái phiếu chính phủ còn được xem là "vật liệu hạ tầng" rất quan trọng đối với các tổ chức, các nhà quản lý tài chính, huy động vốn đầu tư, nhất là các nhà điều hành quỹ đầu tư và ngân hàng. Bằng các nghiệp vụ giao dịch, mua bán trong các thị trường, họ sử dụng các sản phẩm này để phòng ngừa rủi ro hoặc bảo tồn giá trị. Chẳng hạn, một đợt huy động vốn kéo dài nếu không tính tới việc bù đắp nghĩa vụ trả lãi phát sinh, trong thời gian chưa đưa được tiền đó vào vòng quay, có thể đưa đến thiệt hại nghiêm trọng, làm cụt vốn theo kế hoạch, đó là chưa nói tác hại của lạm phát.

Những năm gần đây, do sự biến động về lãi suất thị trường, người ta có khuynh hướng phát hành các trái phiếu ngắn hạn hơn. Ở Mỹ chẳng hạn, lượng T- bills tăng lên và T- bonds giảm xuống. Về tỷ trọng sở hữu của người nước ngoài đối với trái phiếu kho bạc Mỹ cũng tăng lên. Một thống kê thị trường Mỹ vào khoảng năm 1990 cho thấy cơ cấu sở hữu chứng khoán kho bạc "T" như sau: có 75% là các tổ chức, khoảng 12% là các cá nhân và 13% sở hữu thuộc các nước khác nằm ngoài nước Mỹ. Bách phân sau cùng này nay chắc đã lớn hơn nhiều và biết đâu sắp tới sẽ có cả Việt Nam. Cũng trong thời gian đó, lượng trái phiếu trung hạn T- notes đang lưu hành chiếm khoảng 56% tổng lượng chứng khoán kho bạc của chính phủ. Điều này có thể giúp khẳng định thêm rằng khuynh hướng tiếp thị các loại trái phiếu trung hạn tại Việt Nam sẽ có tính hợp thời và khả thi hơn.

Chủ Nhật, 5 tháng 12, 2010

summary of economics Oct 2010- the last opportunity for 2010 in Dec!

Tháng 11 vừa qua với nhiều sự kiện kinh tế chính trị lớn, ảnh hưởng đến thị trường tài chính toàn cầu nói chung, cũng như Việt Nam nói chung- đáng để take note lại & suy ngẫm!
#1: Tổng quan diễn biến thế giới
- Ireland trở thành nước thứ 2 sau Hi Lạp nhận gói cứu trợ 89 tỉ $ để ngăn ngừa khủng hoảng vỡ nợ.
- Bóng ma vỡ nợ lan rộng sang Tây Ban Nha & Bồ Đào Nha, đẩy lợi tức trái phiếu của các quốc gia này tăng cao kỉ lục từ trước đến nay
- Trung Quốc thực hiện chính sách thắc chặt tiền tệ với nỗi lo lạm phát cao + khủng hoảng lương thực khi giá lương thực tăng mạnh. Đồng thời, quốc gia này nhập khẩu vàng nhiều gấp 4 lần năm ngoái để làm chỗ trú chân tránh lạm phát.
- Triều Tiên pháo kích Hàn Quốc, làm rúng động thị trường chứng khoán châu Á.
=> Những diễn biến trên đã khiến giá chứng khoán & giá vàng trên thế giới nhảy múa liên tục, giống như sự bất ổn của nền kinh tế thế giới hiện tại
#2: Tình hình kinh tế trong nước:
-Tin xấu ra dồn dập, Mục tiêu lạm phát của cả năm đã cán đích vào tháng 11.
-Lãi suất huy động tăng kịch trần đến gần 14%.
- Tỉ giá VND/USD tăng đến 21.600
-Vụ Vinashin cho thấy cung cách quản lý & sử dụng tiền công đầu tư của nhà nước còn quá nhiều bất cập, nợ chính phủ đã lên đến con số đáng báo động.
- NHNN chỉ tuyên bố miệng sẽ mạnh tay kiềm hãm sự nhảy múa của giá đô, giá vàng nhưng chưa đưa ra bất kì giải pháp nào để bình ổn thị trường, lãi suất vẫn duy trì 9%
- Dự báo cuối năm, do cầu kéo( nhu cầu chi tiêu cho dịp tết)- chi phí đẩy( lãi suất cao, tỉ giá cao dẫn đến giá thành sản suất cao) sẽ tác động rất lớn đến chỉ số lạm phát trong nước.
Điều hành tỉ giá luôn là vấn đề làm đau đầu NHNN từ trước đến nay, ảnh hưởng rất lớn đến ổn định vĩ mô, hỗ trợ sản xuất đầu tư. Do nhập siêu, cán cân thanh toán bị thâm hụt, NHNN buộc phải dùng nhiều cách để tăng dự trữ ngoại hối, ví dụ: phát hành trái phiếu chính phủ = $, bán cho các tổ chức quốc tế, chênh lệch lãi suất USD & VND hay phá giá đồng nội tệ. Việc phá giá vnđ hỗ trợ xuất khẩu chỉ là giải pháp tình thế ngắn hạn, vì hàng xuất khẩu nước ta NV liệu còn nhập khẩu nhiều, vì vậy tác động kích thích xuất khẩu là ko lớn. Mặc khác, tỉ giá tăng làm nhập siêu ngày càng gia tăng, cộng với các khoản nợ nước ngoài sẽ tăng giá trị vì tỉ giá, đẩy gánh nặng trả nợ cho thế hệ con cháu sau này.
#3: thị trường chứng khoán.
Trước những tin xấu liên tục như vậy, lẽ ra thị trường chứng khoán nên đi xuống mới hợp lí. Từ các cao thủ đầu chảy mủ đến các thấp thủ, bạch thủ, hắc thủ... ko ai dám tin rằng tuần cuối của tháng 11, vnindex từ đáy ~426 bật mạnh lên 464, thanh khoản tăng vọt, có những phiên quá nữa cổ phiếu tăng trần. Các công ty chứng khoán liên tục khuyên nhà đầu tư giữ cash, đứng ngoài thị trường, thấy tình hình nhiều cổ phiếu tăng 20-40% trong thời gian ngắn- bỗng loạn chưởng-nay khuyên nên mua, mai lại khuyên nên bán.
Nhắc lại tình hình tháng 9,t10, tuy vni ko down sập sàn, nhưng tình trạng xanh vỏ đỏ lòng diễn ra 2 tháng khiến hầu hết cổ phiếu đều mất khoảng 30-40% gía, mặc dù chỉ số vni chỉ giao động trong biên độ hẹp, ko mất giá là mấy.
Để ý kĩ, hoá ra là có 1 số bàn tay cố tình thao túng chỉ số vni bằng cách dùng các trụ đỡ, ko cho các trụ đỡ này mất giá.
Thực ra, chỉ số vni chỉ phụ thuộc vào 1 số cổ phiếu vốn hoá lớn như SSI, PVF(vnindex) hay ACB, KLS (hnxindex). Chỉ cần các trụ đỡ này tăng giá, tất cả các cổ phiếu penny có down sập sàn cũng ko ảnh hưởng lớn lắm đến chỉ số chung.
Tuần cuối tháng 11, các cổ phiếu chứng khoán tiên phong cho phong trào " nổi điên" của chứng khoán Việt Nam, đặc biệt là KLS với phiên khớp lệnh kỉ lục 13,8 tr cổ phiếu, tăng trần!
Lực mua dữ dội như vậy thường ko xuất phát từ dòng tiền đầu cơ ngắn hạn. Cách đi tiền mạnh tay, gần như ai muốn bán, thoát khỏi thị trường đều được toại nguyện.
Sắp tới, chỉ số vni tiến gần đến ngưỡng kháng cự 470-480, có 2 khả năng xảy ra:
1- Các tổ chức kích sóng thoát hàng- khả năng này có thể xảy ra do những bất ổn vi mô hiện nay, về lí thuyết, đầu tư chứng khoán quá nhiều rủi ro.
2- Sắp tới tiềm ẩn 1 tin cực tốt có tác động lớn đến thị trường chứng khoán & nền kinh tế Việt Nam, vì vậy "họ" mua vũ bão với khối lượng cực lớn như muốn dành mua trước khi tin ra(gần 2/3 cổ phiếu tăng trần, khối lượng khớp lệnh gấp đôi bình thường). Người viết nghiên về khả năng này.
Hiện tại, các trụ đỡ của chỉ số vni sau 1 thời gian dài xanh giả tạo đã phát tín hiệu uptrend trung hạn với mức tăng mạnh có sự bổ trợ của khối lượng. Chỉ còn chờ 1 cơn gió đông ( 1 tin tốt nào đó) có thể tiến hành đại hội võ lâm hoành tráng. Dòng tiền vào mạnh mẽ như vậy, hoàn toàn có thể hi vọng vnidex sẽ vượt kháng cự 480 & tiến đến mức 500 trong năm 2010- Bất chấp những bất ổn vĩ mô.