Hiển thị các bài đăng có nhãn Fund. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Fund. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Hai kĩ năng sẽ luôn giúp bạn được trả lương cao ở Wallstreet

Wallstreet đã có nhiều thay đổi trong những năm gần đây, nhưng theo Alan Breed, CEO của Edgewood Management- có 2 cách giúp bạn luôn được trả lương cao khi làm việc ở Wallstreet.
Trong 1 lần trả lời phỏng vấn về nghề nghiệp tài chính cho chương trình Open door mới đây, Breed đề cập đến 2 kĩ năng thiết yếu: đó là huy động quỹ (raising money) và marketing.
Đầu tiên, Breed nói:” bạn phải có khả năng huy động quỹ. Những người có khả năng huy động quỹ trong môi trường đầu tư hiện nay luôn được đánh giá cao. Nếu bạn có khả năng tạo ra alpha, bạn sẽ có nhiều tiền”.
Cách thứ hai, vị CEO này nhấn mạnh: đó là marketing. Breed giải thích:” marketing là 1 phần rất quan trọng để phát triển mô hình kinh doanh của bạn.Bạn đã biết rằng Portfolio Managers là những người có nhiều ý tưởng lớn & là người điều hành quỹ.  Và ngày nay, bạn cần biết rằng những người làm marketing có thể phát triển kênh phân phối là những người quan trọng thứ 2 của Quỹ & sẽ được trả lương rất cao”.
Breed cũng cảnh báo rằng những người làm công nhân tài chính như broker, analyst…hay làm ở Private equity thu nhập sẽ thấp dần đi trong tương lai, nếu bạn chỉ biết làm những công việc bình thường của công nhân tài chính.

Nhìn lại thị trường Việt Nam thì 2 điều Breed nói cũng là 2 kĩ năng sống còn ở TTCK Việt Nam. Khi thị trường tài chính bất ổn, làn sóng rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài ít nhiều tác động đến các quỹ đầu tư. Nếu bạn có thể đi raising fund được trong thời buổi khó khăn này chắc chắn sẽ được trải thảm đỏ chào đón. Kĩ năng marketing thì rất quan trọng khi cần phát triển hoặc exit  deal (mông má trình bày thật đẹp đẽ để bán được giá cao). Đó là 2 cách add value rõ ràng nhất cho công ty sẽ được trả lương cao. 

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

Quỹ Private Equity khác quỹ Venture Capital như thế nào?


Về lí thuyết, Venture Capital (VC) chỉ là 1 dạng của Private Equity. Cả 2 đều đầu tư vào các công ty mục tiêu(thường là chưa niêm yết, đối với PE có thể mua công ty niêm yết sau đó huỷ niêm yết), kiếm tiền từ đầu tư chứ không phải phí tư vấn. Tuy nhiên, nếu tìm hiểu kĩ thì có những điểm khác nhau rất lớn giữa 2 loại quỹ này.

Họ làm gì?
Loại công ty: Quỹ PE thường mua công ty mục tiêu ở nhiều ngành, trong khi đó VC chỉ tập trung vào các ngành mạo hiểm như công nghệ, dược phẩm…
Tỉ lệ mua: quỹ PE thường mua  100% công ty mục tiêu thông qua hình thức Leverage buy out, trong khi đó quỹ VC thường chỉ mua 1 tỉ lệ nhỏ, thường dưới 50%.
Size: vì mua cả công ty nên quỹ PE thường có những vụ đầu tư lớn, trong khi đó quỹ VC thường mua công ty ở giai đoạn phôi thai, nên tốn ít tiền hơn.
Cấu trúc vốn: quỹ VC thường mua bằng tiền của mình (equity), còn quỹ PE thường kết hợp cả vốn và vay nợ.
Vòng đời: Quỹ PE thường mua các công ty đã đi vào ổn định, hoặc đã là pucblic companies, còn quỹ VC hầu như chỉ mua các công ty sơ khởi, chưa có doanh thu.

Rủi ro & lợi nhuận
VC biết rằng rất nhiều công ty họ đầu tư vào sẽ thất bại, nhưng chỉ cần 1 vụ đầu tư thành công thì sẽ đem đến lợi nhuận khổng lồ, đủ đề bù đắp cho rất nhiều phi vụ thất bại trước đó. VC đầu tư vốn vào hàng tá công ty, mỗi công ty một ít (đa dạng hoá giống chơi số đề :D ). Trong khi đó quỹ PE thì khác hẳn.
Số lượng phi vụ đầu tư của quỹ PE ít hơn, khoản tiền đầu tư lớn hơn rất nhiều, giống như các nhà đầu tư CK chúng ta đánh tất tay, được ăn cả, ngã ăn mì tôm cả tháng. 1 vụ đầu tư thất bại ảnh hưởng lớn đến PE fund.
Lợi nhuận
Bạn  muốn biết loại quỹ nào có suất sinh lời cao hơn?
Có rất nhiều tranh luận về vấn đề này, nhưng nó có vẻ thấp hơn nhiều so với con số bạn nghĩ đến.
Hầu hết các quỹ PE & VC có lợi nhuận mục tiêu chỉ là 20%. Nhưng lợi nhuận trung bình trong giai đoạn 2005-2010 của nhiều PE & VC fund ở Mỹ đều dưới 10%. Điểm khác biệt là đối với quỹ VC, những thương vụ đầu tư tốt nhất thường thuộc về top fund lớn nhất, vì vậy return trung bình của quỹ VC bị thiên lệch mạnh & biến động cao giữa các quỹ có fund size khác nhau.
Tăng giá trị

Cả VC & PE fund đều tăng giá trị cho công ty mục tiêu bằng cách tái cấu trúc hoạt động & quản lí của công ty mục tiêu, đuổi giám đốc cũ, thay thế bộ máy mới có trình độ cao hơn. Các quỹ này cũng có thể kiếm lời bằng cách mua công ty mục tiêu với giá rẻ. Ngoài ra, giá trị tăng thêm có thể đến từ việc thay đổi cơ cấu vốn, sử dụng nhiều nợ có lãi suất rẻ hơn nhờ vào danh tiếng & quan hệ của quỹ. Sau khi chăn nuôi công ty mục tiêu lớn lên, quỹ đầu tư chốt lời bằng cách bán cho 1 quỹ PE khác, IPO, hoặc dùng 1 hình thức gọi là dividend recapitalizations. Công ty mục tiêu sẽ phát hành thêm nợ để trả 1 cục cổ tức thật lớn cho quỹ PE. Quỹ vẫn giữ quyền kiểm soát công ty, nhưng đã kiếm được 1 khoản lời lớn từ tiền cổ tức nhận được.
Về lí thuyết, quỹ VC có nhiều cơ hội để cải thiện quy trình hoạt động của công ty mục tiêu hơn, vì họ mua công ty trong giai đoạn sơ khai, nên hoạt động & bộ máy quản trị còn nhiều yếu kém.  
 (hết phần 1)

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Những câu hỏi phỏng vấn chuyên ngành cần chuẩn bị khi xin việc ở vị trí phân tích đầu tư


2 năm vừa qua, với sự đi xuống của TTCK, rất khó để xin được việc làm ngành chứng khoán – đầu tư vì nhiều công ty CK, quỹ đầu tư cắt giảm nhân sự nhiều hơn là tuyển thêm.  Trong bối cảnh việc làm ít mà cạnh tranh thì gay gắt, muốn có 1 vị trí đúng với năng lực & nguyện vọng của mình đòi hỏi ứng viên phải chuẩn bị thật kĩ từ nền tảng kiến thức tốt, kinh nghiệm phù hợp, CV ấn tượng. Nhưng sự thể hiện bản thân ở vòng phỏng vấn mới là quan trọng nhất trong quá trình kiếm việc. Dưới đây là 1 số câu hỏi phỏng vấn về kiến thức chuyên ngành cho vị trí phân tích đầu tư bạn nên tập thật kĩ trước buổi phỏng vấn:
1/ Những tính cách nào cần có của 1 chuyên viên phân tích đầu tư giỏi?
2/ Triết lý đầu tư của bạn là gì?
3/ Bạn có đang nắm giữ cổ phiếu nào ko? Vì sao bạn lại chọn mua cổ phiếu đó?
4/ Bạn nghĩ TTCK năm nay sẽ diễn biến ntn? Tại sao?
5/ Các cách thường dùng để định giá 1 doanh nghiệp? Bạn biết gì về phương pháp Discount FCF và pp relative valuation?
6/ Discount rate dùng cho phương pháp DCF tính như thế nào?
7/ WACC là gì, tính như thế nào?
8/ Tính Cost of debt & Cost of equity như thế nào?
9/ Cách nào để Định giá 1 doanh nghiệp có FCF âm?
10/ Chỉ số P/E là gì? Làm sao biết cổ phiếu là rẻ hay đắt khi biết P/E?
11/ Bạn nắm vững về ngành nào nhất? Theo bạn báo cáo tài chính của 1 công ty như HSG sẽ có đặc điểm gì nổi bậc về Báo cáo lãi lỗ, giá vốn hàng bán, lợi nhuận biên?
12/ Bạn đã từng sử dụng mô hình định giá nào trước đây chưa?
13/ Theo bạn, lãi suất & tỉ giá năm nay sẽ biến động như thế nào?
Những câu hỏi này người viết tổng hợp từ internet & từ kinh nghiệm đau thương của những lần phỏng vấn thất bại (những câu này xác suất bị hỏi rất cao!). 

Thứ Sáu, 30 tháng 11, 2012

[PE fund] ý nghĩa của các thuật ngữ thông dụng

Có khi nào bạn đọc 1 bài viết về fund (PE fund) và gặp khó khăn với 1 số thuật ngữ chuyên ngành mới, ví dụ như thuật ngữ “hudle rate” trong bài viết http://vfpress.vn/threads/ban-luan-viec-vof-chao-ban-50-so-co-phan-cua-metropole-ha-noi.4387/ ? Bài viết này ghi lại ý nghĩa của 1 số thuật ngữ thông dụng liên quan đến PE fund . Đây chỉ là những thuật ngữ thường gặp, không có gì cao siêu & có lẽ còn thiếu rất nhiều, mong sự góp ý bổ sung của bạn đọc.

Cấu trúc phổ biến nhất của 1 PE fund là dạng limited parnership ( hợp danh-trách nhiệm hữu hạn)
-Limited Parners (LP): người góp vốn vào quỹ & không chịu trách nhiệm quản lý đầu tư. LP chỉ chịu rủi ro đối với phần vốn họ đầu tư vào quỹ.

-General Parners (GP): Fund manager, chịu trách nhiệm quản lý đầu tư.

-Management fee: phí quản lý trả cho GP hàng năm, thường là 2% của NAV hoặc của tổng vốn đã góp (Paid in capital)

-Transaction fee: phí trả cho GP khi họ sắp xếp tiến hành M&A hoặc IPO đem lại lợi ích cho fund.

-Carried interest/Performance fee: khi fund hoạt động có lợi nhuận thì GP cũng được chia 1 phần lợi nhuận đó, thường là 20% (sau khi trừ phí quản lý)

-Ratchet: điều khoản về tỉ lệ sở hữu cổ phần của cổ đông và lãnh đạo của công ty PE, cho phép ban lãnh đạo được tăng tỉ lệ sở hữu nếu công ty làm ăn có lãi.

-Hurdle rate: là IRR mà fund phải đạt được trước khi được chia carried interest. Ví dụ quỹ Losado của e có vốn 1 tỉ VND, hurdle rate 8%, carried interest là 20%. Sau 2 năm hoạt động, Losado fund đã đầu tư số vốn 1 tỷ vào Vfpress và có lãi 50 triệu. Nếu không có điều khoản Hurdle rate thì GP sẽ được chia lãi 10tr. Nhưng vì Hurdle rate là 8% nên sau khi số lãi vượt qua 80tr thì GP mới được chia lãi.

-Vintage year: là năm mà quỹ hoạt động & là điểm bắt đầu để so sánh performance với các fund khác

-Term of the fund: đó là vòng đời của 1 fund, thường là 10 năm. Dưới đây là hình vẽ minh hoạ về dòng đời của 1 fund, từ lúc sơ khai marketing chém gió để huy động vốn, đến lúc đầu tư và giải tán quỹ

-Key man clause: điều khoản yêu cầu đích danh 1 số thành viên đại bàng phải đóng 1 vai trò quan trọng trong việc điều hành quỹ. Nếu vì 1 lí do nào đó đại bàng kia không điều hành nữa thì các cổ đông sẽ không cho phép GP tiến hành đầu tư thêm, cho đến khi 1 key man mới được chấp thuận.

-Clawback: Quỹ Losado ở trên đầu tư năm đầu lãi 100tr, GP được chia 20tr. Năm thứ 2 lỗ 200tr, không được chia carried interest. Năm thứ 3 lãi 100tr, vậy GP sẽ được chia thưởng 20tr giống năm 1? Với điều khoản Clawback thì quỹ phải kiếm lời bù lại khoản lỗ của năm thứ 2 xong rồi mới được chia lãi. Như vậy năm thứ 3 quỹ phải có lãi lớn hơn 200tr mới được chia thưởng