Hiển thị các bài đăng có nhãn chứng khoán. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn chứng khoán. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Walter Schloss: học trò thành công nhất của Benjamin Graham

Mọi người đều biết đến cha đẻ của trường phái đầu tư giá trị là Graham. Buffett áp dụng 85% trường phái Graham và 15% trường phái Fisher để trở thành nhà đầu tư thành công nhất mọi thời đại (vì Ông dùng 15% độc chiêu của môn phái & sáng tạo ra trường phái riêng nên tôi không gọi Buffett là học trò thành công nhất của Graham) . Còn Schloss, Ông gần như áp dụng 100% chỉ bảo từ người thầy Graham để trở thành 1 nhà đầu tư giá trị vĩ đại, từng được Buffett gọi là “superinvestor”  trong các bức thư gửi cổ đông, cũng như trong các cuộc trò chuyện về đầu tư.

Không giống như Buffett, Schloss thường đa dạng hóa danh mục lên đến trên dưới 100 cổ phiếu. Thành tích của Ông là đem về trung bình cho các nhà đầu tư 15.3% trong suốt 47 năm (1955-2002), gấp đôi so với con số 7% return cuả chỉ số S&P. Dưới đây là 1 số điểm nổi bậc trong cuộc đời đầu tư của Walter Schloss:

Ông chỉ tốt nghiệp cấp 3 và không học đại học.
Năm 1934, Walter tròn 18 tuổi & bắt đầu làm việc tại Wall Street với vị trí binh bét trong 1 brokerage house. Nhiệm vụ của Ông chỉ là giao giấy đặt lệnh của nhà đầu tư & vận chuyển cổ phiếu lại cho họ (thời này chưa trade online). Ông rất đam mê đầu tư, & được 1 Đại Bàng phòng research trong firm(Mr. Erpf) chỉ bí kíp:“ mày muốn học đầu tư thì hãy đọc sách Securities Analysis của Graham cho thật kĩ. Đến khi hiểu mọi điều trong sách này là đủ, khỏi cần học ai và đọc thêm sách nào khác”.
Năm 1940 khi chiến tranh thế giới II đang diễn ra ác liệt, Ông quyết định  nghỉ làm để gia nhập quân đội chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Vài năm ở quân đội đã dạy Ông rất nhiều điều về đầu tư “ tôi học được rằng Tôi có thể sống sót ở TTCK, cũng giống như việc sống sót trên chiến trường, và đừng để mất tiền”.
Trong quân ngũ, ông có viết CV gửi cho Graham. Khi 1 analyst trong firm của Graham nghỉ, Graham đã mời Schloss vào thế chỗ ngày 2/1/1946 với mức lương 50 đô 1 tuần. Làm việc với Graham 10 năm, Schloss thấm nhuần tư tưởng của Graham và chỉ chuyên săn hàng net-net (cổ phiếu bán dưới net-net working capital).
Năm 1955, khi Graham giải nghệ về hưu, Schloss quyết định mở 1 quỹ riêng quản lý 100,000$.
Triết lý đầu tư của Schloss:
“Chúng tôi chỉ mua cổ phiếu rẻ”
Theo phong cách đầu tư giá trị của Graham suốt cuộc đời đầu tư của Ông.
Ông rất ít khi nói chuyện với lãnh đạo công ty bởi vì họ thường phóng đại performance & ảnh hưởng đến đánh giá của Ông. Vì vậy Schloss chỉ quan tâm đến số liệu báo cáo tài chính. Đặt biệt, Ông chú ý đến Balance sheet nhiều hơn báo cáo kết quả kinh doanh.
Ông thường chọn cổ phiếu có P/B & P/E thấp, ít nợ.
Ông thích cổ phiếu có chu kì và thường nghiên cứu về chu kì lợi nhuận của công ty trong 1 khoảng thời gian dài. Ông rất quan tâm đến balance sheet vì tài sản công ty thường ít biến động bằng lợi nhuận hàng năm.
Ông không thích mất tiền, vì vậy toàn chọn hàng giá rất rẻ và đa dạng hóa danh mục từ 60-100 cổ phiếu. Thời gian nắm giữ của Ông thường là 4 năm. Theo Ông, rất nhiều người học hỏi phong cách của Buffett và mơ ước đầu tư giỏi như Buffett. Nhưng nên nhớ rằng Buffett không chỉ phân tích cổ phiếu giỏi, mà Ông còn rất cao thủ trong việc đánh giá con người, đánh giá ban lãnh đạo & business. Ông biết mình thiếu những tố chất giống Buffett, nên có bắt chước cách đầu tư của Buffett cũng không thành công được . Vì vậy Ông chọn hướng đi riêng, phù hợp với tính cách và sở trường của Ông.

Nhà đầu tư huyền thoại này qua đời năm 2012 ở tuổi 95. 
Performance của Ông

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Nên nắm giữ bao nhiêu cổ phiếu trong danh mục?

Dân đầu tư ai cũng biết nguyên tắc “ không nên bỏ tất cả trứng vào chung 1 giỏ”. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh đa dạng hóa danh mục sẽ giúp bạn hạn chế rủi ro mất tiền. Nhưng không phải ai cũng đồng ý với quan điểm trên. Triết lý của người giàu thứ 2 trong lịch sử thế giới (đã tính trượt giá lạm phát), ông vua thép Andrew Carnegie:” Hãy biết tập trung năng lượng, tâm trí và vốn liếng… Người đàn ông thông minh sẽ đặt mọi quả trứng anh ta có vào trong một chiếc giỏ và trông chừng nó.” Còn các nhà đầu tư lừng lẫy trên thế giới, như Buffett, Fisher, Graham…họ bỏ trứng vào bao nhiêu giỏ?

Hãy bắt đầu từ cách bỏ trứng của Ben Graham- người khai sinh ra trường phái đầu tư giá trị. Trong chương 5 của quyển “ Nhà đầu tư thông minh”, ông khuyên chúng ta nên đa dạng hóa danh mục 1 cách vừa phải, ít nhất 10 cổ phiếu & tối đa 30 cổ phiếu trong danh mục. Những công ty đầu tư vào cần phải lớn, nổi bậc & có tình hình tài chính ổn.
Năm 1952, Harry Markowitz ủng hộ quan điểm của Graham và cho rằng nếu chúng ta tập trung quá nhiều vốn vào vài mã cổ phiếu thì sẽ không hiệu quả & nhiều rủi ro. Không dừng lại ở đó, Ông còn mô hình hóa quá trình lựa chọn danh mục đầu tư  để cho thấy một cách chính xác làm thế nào nhà đầu tư có thể làm giảm độ lệch chuẩn của lợi nhuận danh mục cổ phiếu của mình bằng cách chọn các cổ phiếu không biến thiên cùng với nhau. Nghiên cứu này còn giúp Ông đoạt giải Nobel năm 1990.
Ngược lại với 2 đại cao thủ này,năm 1934 John Maynard Keynes cho rằng phương pháp đầu tư đúng đắn là bỏ 1 số tiền lớn vào 1 số ít doanh nghiệp mà chúng ta hiểu rõ về nó: “ sẽ là sai lầm nếu bạn cho rằng có thể hạn chế rủi ro bằng cách rải tiền vào quá nhiều doanh nghiệp mà bạn chẳng hiểu gì về nó, và chẳng có lí do nào để tự tin vào tương lai của doanh nghiệp đó.” Theo Keynes, tại 1 thời điểm mà đầu tư trên 3 cổ phiếu là quá nhiều. Tốt nhất nên gửi trọn niềm tin vào 1-3 cổ phiếu mà bạn tự tin nhất.
Trong thư gửi cổ đông Berkshire Hathaway năm 1991, Buffett ủng hộ quan điểm của Keynes và cho rằng thật sai lầm nếu dạy các nhà đầu tư phải đa dạng hóa để giảm thiểu rủi ro. Sự nguy hiểm của việc bỏ trứng vào quá nhiều giỏ đó là bạn không thể quan sát tất cả trứng của bạn trong nhiều giỏ được. Buffett đã học được từ Fisher rằng:” mua nhiều cổ phiếu mà không bỏ thời gian ra để hiểu cặn kẽ business của những doanh nghiệp đó còn rủi ro hơn nhiều so với danh mục tập trung”. Trong thư gửi cổ đông năm 1993, Ông tiếp tục ủng hộ danh mục tập trung vài cổ phiếu khi đưa ra quan điểm “nếu bạn là nhà đầu tư có hiểu biết, có thể hiểu được business và tìm được 5-10 công ty tốt với mức giá hợp lí có lợi thế cạnh tranh lâu dài, lúc này thuyết đa dạng hóa chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Trái lại nó còn làm giảm lợi nhuận của bạn.”2 cao thủ nhất đẳng Buffett và Charlie mỗi năm chỉ chọn 1 công ty để mua. Sau nhiều năm chinh chiến, đôi bạn già này thấy rằng trong cuộc đời đầu tư quá khó để có thể đưa ra hàng trăm quyết định thông minh sáng suốt. Vì vậy 2 Ông dành toàn bộ kinh nghiệm, thời gian & trí tuệ của mình lọc trong hàng trăm cổ phiếu tiềm năng, chỉ chọn 1 cổ phiếu ưng ý nhất để đầu tư.  
 Seth Klarman viết trong cuốn “Margin of safety” cũng trình bày quan điểm này của Buffett, nhà đầu tư hiểu thật nhiều về 1 cổ phiếu & tự tin nắm giữ nó sẽ tốt hơn là mua nhiều cổ phiếu & biết mỗi công ty 1 chút. Số lượng cổ phiếu trong danh mục mà Klarman khuyến nghị là từ 10-15 cổ phiếu.

Tóm lại, số lượng cổ phiếu tối ưu tại 1 thời điểm theo sự chỉ dạy của các đại cao thủ đầu tư trên thế giới như sau:
Ben Graham: 10-30 công ty lớn, có tiềm năng & tài chính tốt.
John Keynes : 2-3 cổ phiếu thôi, nhưng hiểu thật kĩ trước khi xuống tiền.
Warren Buffett: 5-10 cổ phiếu, hiểu về lợi thế cạnh tranh dài hạn của doanh nghiệp & mua với giá hợp lí.
Seth Klarman: 10-15 cổ phiếu, biết ít nhưng mà chất. Biết mỗi thứ 1 ít thì cũng như không, vì ai cũng chém gió được.
Cá nhân e thì danh mục chỉ gồm 1-2 cổ phiếu thôi, không phải vì e hiểu doanh nghiệp nên không đa dạng hóa, mà vì vốn bé quá, mua 1 phát tất tay, buy and pray cho nhanh, khỏi đa dạng hóa mất công đặt lệnh.

Còn theo các bạn, nếu có trong tay 1 tỉ đồng trở lên thì bạn sẽ nắm giữ bao nhiêu cổ phiếu?   

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Charlie Munger- phó tướng của Buffett

Charile Munger là 1 tên tuổi lớn xứng đáng nằm trong ngôi đền huyền thoại của các nhà đầu tư giá trị. Kể từ khi làm việc chung với W. Buffett từ năm 1959, Ông luôn là cánh tay phải đắc lực của WB, giúp WB bổ sung khuyết điểm rất nhiều & góp phần xây dựng đế chế Berkshire Hathaway hùng mạnh như ngày nay. Lão tướng Charlie Munger năm nay 89 tuổi, hiện là chủ tịch của tập đoàn tài chính Wesco và đồng thời là phó chủ tịch Berkshire Hathaway, với gia tài trị giá 1.2 tỉ USD (9/2013).
Dưới đây là chiến tích của cá nhân Charlie giai đoạn 1962-1975 (không có sự trợ giúp của Buffett)


Từ năm 1962-1975 Munger kiếm được trung bình 19.8% mỗi năm, trong khi đó chỉ số DJ chỉ tăng trung bình 4.9%. Năm 2002, Ông quản lý danh mục đầu tư của the Daily Journal trị giá 4.3 triệu đô, đến năm 2012 danh mục này đã tăng 19 lần (76.7 triệu $).

Munger sinh ở Omaha ngày 1/1/1924. Ông từng học toán ở University of Michigan & tốt nghiệp trường luật Harvard năm 1948. Sau đó Charile bắt đầu tập trung vào đầu tư. Giai đoạn đầu đời của Charile là 1 tấm bi kịch. Ông lập gia đình năm 21 tuổi (sớm quá, chắc bác sĩ bảo cưới). Cuộc hôn nhân chỉ kéo dài 8 năm & đổ vỡ, người vợ lấy hết gia tài của Ông. Charlie cùng cậu con trai 8 tuổi Teddy Munger rời khỏi nhà với 2 bàn tay trắng. 1 năm sau, Teddy qua đời vì căn bệnh ung thư, Charile sụp đổ vì mất tất cả. Không những vậy, 1 con mắt của ông bị hỏng vĩnh viễn. Năm 35 tuổi, Ông đi bước nữa, vài đến giờ Ông đã có  đứa con & 1 đàn cháu chắt đủ lập vài đội bóng. Năm 25 tuổi lương hàng năm của Ông là khoảng 30,000 Đô, còn hiện nay gia tài Ông đã hơn 1 tỉ USD. Năm 69 tuổi, Munger đã năm trong top 400 người giàu nhất thế giới.

Cũng giống như Buffett, Munger rất rộng rãi trong việc quyên góp, từ thiện bằng cả tiền mặt và cổ phiếu. Mặt dù bỏ nghề luật từ rất sớm nhưng Ông vẫn đóng góp số cổ phiếu trị giá 43.5 triệu USD cho khoa luật của trường Stardford để tạo điều kiện học tập tốt hơn cho sinh viên. Năm 2007, ông cũng quyên góp 3 triệu USD cho University of Michigan Law School.
    
Về triết lý đầu tư, Ông cũng đầu tư theo trường phái giá trị của Graham, tập trung vào các business undervalued và có economic moats. Một số câu nói nổi tiếng của Charile:
“Tất cả những nhà đầu tư thông minh là nhà đầu tư giá trị- kiếm được nhiều tiền hơn số tiền bạn đã trả. Bạn phải định giá được business để có thể định giá cổ phiếu”
“Mỗi ngày, hãy cố gắng trở nên sáng suốt hơn một chút so với lúc bạn mới ngủ dậy”
“ Trong cả cuộc đời, tôi chưa biết một ai thông minh mà lười đọc sách-không một ai! Bạn sẽ kinh ngạc nếu biết tôi & Buffett đọc nhiều như thế nào”
“Đam mê và tài năng bẩm sinh, điều gì quan trọng hơn? Mọi người ở Berkshire đều có một niềm đam mê đặc biệt với công việc của họ. Với tôi, đam mê quan trọng hơn sự thông minh.”
“ Đừng làm việc với người bạn không ngưỡng mộ & không muốn làm việc chung”
 “ mua 1 công ty tuyệt vời với mức giá hợp lý tốt hơn nhiều lần so với 1 công ty bình thường với mức giá tuyệt vời”


Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Cách đọc báo cáo tài chính trong 1 phút

Trong bài phỏng vấn năm 1993, khi được Adam Smith hỏi làm thể nào 1 nhà đầu tư nhỏ lẻ có thể tìm được cổ phiếu tốt, Warren Buffett trả lời:” hãy làm theo cách tôi đã làm từ 40 năm trước đây, đọc báo cáo tài chính của tất cả các doanh nghiệp niêm yết ở Mỹ. với 1 kho kiến thức khủng tăng theo thời gian đó sẽ giúp bạn đầu tư tốt” . Smith hỏi lại:” nhưng có đến 27 ngàn công ty?”. “Thì bắt đầu từ vần A”-Buffett trả lời.
Dĩ nhiên ngày nay tên tuổi của Buffett đã lừng lẫy & có rất nhiều doanh nghiệp tự tìm đến Ông để chia sẻ ý tưởng kinh doanh. Nhưng cách đây 50 năm thì Buffett cũng chỉ là 1 nhà đầu tư nhỏ lẻ như chúng ta và cũng phải lọ mọ đọc báo cáo tài chính  để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Ai cũng biết Buffett đọc rất nhiều.
Với công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, chúng ta có lợi thế hơn Buffett rất nhiều khi chỉ click chuột 1 cái là có ngay báo cáo để nghiên cứu. Số lượng doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam cũng không nhiều, vì vậy đọc hết báo cáo tài chính của tất cả doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, tôi & nhiều VFers khác còn phải lo cơm áo gạo tiền, chiếm trọn thời gian hàng ngay. Dù có đủ đam mê & chăm chỉ nhưng không phải ai cũng có điều kiện như Buffett để có thể ngồi đọc báo cáo tài chính 15h/ngày. Vì vậy tôi đọc lướt 1 báo cáo tài chính trong vài phút, cái nào tốt thì đánh dấu lại & tìm hiểu sâu. Báo nào nào nhìn vô đã thấy tệ thì không tốn thời gian nghiên cứu công ty đó nữa.
Xin phép bắt đầu từ báo cáo của L10 mà tôi lọ mọ đọc sáng nay. Bước tìm hiểu đầu tiên, tôi dựa hoàn toàn vào BCTC để phán. Rất có thể tôi phán sai, & bạn có nhiều thông tin hơn để tin tưởng vào tiềm năng dài hạn của L10, nhưng đây là cổ phiếu tôi loại ra khỏi danh sách theo dõi sau 1 phút đọc BCTC.  Có thể L10 có vài điểm tốt nào đó, nhưng nếu đặt túi tiền của mình vào đây thì khó kê gối ngủ ngon. Trong khi đó còn nhiều cổ phiếu khác có thể bỏ tiền vào & kê gối ngủ ngon dựa vào lợi thế cạnh tranh rõ ràng, biên lợi nhuận cao, không vay nợ (VNM, DHG…).




1 nguyên tắc cơ bản là Bad Balance Sheet= Bad business. 1 doanh nghiệp có Bad Balance Sheet thường lợi nhuận & các yếu tố khác biến động rất thất thường. Có thể bạn may mắn mua trúng đáy & năm sau doanh nghiệp có lợi nhuận khủng, nhưng liệu lợi nhuận có ổn định & duy trì trong thời gian dài được không? Tôi thì cẩn trọng & chú trọng vào sự ổn định hơn.
Nếu bạn không có nhiều thời gian, hãy  đọc báo cáo tài chính trong 5 phút mỗi ngày & loại những cổ phiếu không hấp dẫn ra khỏi danh mục. Sau 3 tháng, bạn sẽ có 1 danh mục vài chục cổ phiếu tốt để tự mình quyết định đầu tư.


Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Đầu tư chứng khoán: phân tích bao nhiêu là đủ?

Nếu nghề nghiệp của bạn là bác sĩ, kĩ sư, hoặc kế toán, càng đọc nhiều sách chuyên ngành, hiểu biết sâu rộng về kiến thức chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm làm nghề sẽ giúp tay nghề bạn càng ngày càng cao và càng khó bị tầng lớp trẻ soái ngôi. Nhưng làm đầu tư thì khác! Có lẽ không có ngành nghề nào mà ranh giới giữa chuyên gia & newbie lại mỏng manh như nghề đầu tư. Đầu tư thành công đòi hỏi 1 số tố chất  riêng & sự nhạy bén, không phải cứ cần cù, sống lâu bù thông minh là có thể thay thế được (theo @Shadow). Đẹp trai tài giỏi & cáo già như Ackman 1 phút sơ sẩy vẫn phải cắt lỗ 50% như các nhà đầu tư non tay mới vào nghề.
Nhiều nhà đầu tư thường bị lỗi tâm lí illusion of control (ảo tưởng về khả năng kiểm soát). Khi họ nghiên cứu rất kĩ một cổ phiếu trước khi mua, phân tích cơ bản, kĩ thuật, tin nội gián, biết tường tận đội lái nào sẽ đánh lên ở đâu, rung lắc mốc nào…, họ tin rằng hiểu biết của họ dư sức giúp họ kiểm soát được đường đi của cổ phiếu họ nắm giữ.(Cuối cùng bị đội lái úp sọtàlỗ nặng).  Ngược lại, 1 số nhà đầu tư khác lại không hề nghiên cứu tí gì về cổ phiếu của mình mua mà dựa hoàn toàn vào tư vấn của Broker hoặc mua cổ phiếu nóng theo các cao thủ phím cho. Các nhà đầu tư mới vào thị trường thường chơi kiểu này & phần lớn là lỗ nặng. E thuộc thành phần thích tích phân, phân tích kĩ càng, lọ mọ đọc báo cáo tài chính, nghiên cứu ngành, model DCF hoành tránh. Đến lúc model hoàn chỉnh, báo cổ phiếu ngon bổ rẻ, tính toán mua thì cổ phiếu chạy được vài chục % mất rồi, không còn rẻ nữa.
Nghiên cứu quá nhiều cũng không ổn, không nghiên cứu gì thì lỗ chắc. Vậy phải hiểu biết sâu tới đâu trước khi nhấn nút mua? Rất may có cuốn Margin of Safety của Seth Klarman đã giúp e giải đáp thắc mắc này. Theo sách viết thì dù có nghiên cứu kĩ đến đâu thì cũng có 1 số thông tin quan trọng các nhà đầu tư thông thường sẽ không biết được, vì vậy nhà đầu tư cần phải học kĩ năng ra quyết định dựa trên những gì mình hiểu biết về công ty đó. Dù bạn có biết tất tần tật về công ty cũng không chắc mua vào đã có lãi. Tìm kiếm thông tin để đầu tư cũng tuân theo nguyên tắc 80/20: 80% thông tin cần thiết mà bạn có thể kiếm được thường đến từ 20% thời gian tìm kiếm. Hơn nữa, các thông tin về ngành, số liệu vĩ mô biến động liên tục, khiến bạn phải liên tục cập nhật tin tức. Nếu ai cũng biết những thông tin như nhau thì bạn sẽ không còn lợi thế về thông tin nữa. Vì vậy, các nhà đầu tư thành công thường không chờ đợi đến lúc hiểu biết hoàn hảo về doanh nghiệp mới ra quyết định đầu tư. Họ được đánh giá cao nhờ sự nhạy bén & quyết đoán của mình khi đi những nước cờ có nhiều rủi ro. Thời gian chờ đợi thu thập đầy đủ thông tin có thể khiến các nhà đầu  mất cơ hội mua cổ phiếu giá thấy và biên an toàn không còn nữa.
Thực tế, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thu thập càng nhiều thông tin càng khiến bạn tự tin quá mức, chứ không tăng độ chính xác lên được. Sự tự tin quá mức rất nguy hiểm trong đầu tư. Vì vậy, chỉ cần bạn trả lời được 8 câu hỏi sau trước khi đầu tư là coi như đã hoàn thành được 80% quá trình phân tích trước khi quyết định đầu tư:
1/ Mô hình kinh doanh của công ty có dễ hiểu và dễ điều hành không?
2/ Công ty có tăng trưởng ổn định về doanh thu và EPS trong 5-10 năm qua không? (sự ổn định quan trọng hơn tốc độ tăng trưởng)
3/ Công ty sẽ làm ăn ổn và có lợi nhuận tốt hơn trong 5-10 năm tới không? (dự đoán nhu cầu sản phẩm & dịch vụ của doanh nghiệp trong tương lai)
4/ Công ty sử dụng lợi nhuận giữ lại như thế nào?
5/ Công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững không? (sức mạnh giá, lợi nhuận biên, dẫn đầu ngành, rào cản gia nhập…)
6/ Ban lãnh đạo điều hành doanh nghiệp tốt như thế nào? (phân bổ vốn, ROE, corporate governance, so sánh với đối thủ cạnh tranh)
7/ Công ty có đòi hỏi phải đầu tư capex nhiều đều đặn mỗi năm để tăng trưởng không?
8/ Công ty có tạo ra nhiều tiền & tốn ít chi phí không?

Phần lớn checklist này cũng giống với cách chọn công ty tuyệt vời và tránh công ty ăn hại của Buffett.

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Warren Buffett trúng đậm với deal Mars Candy

Warren Buffett và Berkshire Hathaway đã kiếm được rất nhiều tiền từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Trong cuộc khủng hoảng, Berkshire  đóng vai trò hiệp sĩ áo trắng (white knight investor), cung cấp những khoảng tiền khổng lồ và khẩn cấp cho các công ty lớn. Với túi tiền khủng của mình, Buffett có khả năng cho các định chế tài chính lớn như Bank of America hay Goldman Sachs vay với lãi suất cao, hoặc đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi của các tổ chức này với cổ tức hấp dẫn.

Một trong những công ty mà Berkshire cho vay tiền là Mars Inc. Năm 2008, Mars cần 23 tỉ USD mua lại Wm. Wrigley Jr. Buffett đã cho Mars vay 4.4 tỉ USD and dùng 2.1 tỉ USD mua cổ phần của Wrigley dưới dạng cổ đông thiểu số. Tại thời điểm đó, Buffett nói:” Các bạn đều biết rõ tôi rất thích mô hình kinh doanh của Wrigley từ nhiều năm nay, và tôi cũng thích sản phẩm của họ. Khi bạn muốn tìm một mô hình kinh doanh dễ hiểu, có tiềm năng tăng trưởng dài hạn, và có ban quản trị đáng tin tưởng, bạn sẽ nghĩ ngay đến Wrigley. Kết hợp những gì Wrigley đã có với một công ty có nguồn lực hùng hậu và xây dựng được thương hiệu tốt như Mars sẽ tạo nên một công ty “bá đạo” về sự sáng tạo & tăng trưởng trên thị trường bánh kẹo thế giới.
The Wall Street Journal cho biết Berkshire đã lãi ít nhất 680 triệu đô ở deal này. Mars đã mua lại trái phiếu trị giá 4.4 tỉ USD năm 2008 của Berkshire với giá cao hơn 115% so với par value cộng với tiền lãi. Deal này diễn ra ngay khi có tin rằng Berkshine đã exercise chứng quyền (warrant) trị giá 2 tỉ USD cho 13.2 triệu cổ phiếu của Goldman Sachs. Các chứng quyền này đã được thỏa thuận từ cuộc khủng hoảng 2008, Goldman Sachs đã phải cầu viện đến Berkshire để tăng vốn và vực lại niềm tin của thị trường, khi cổ phiếu của họ lao dốc sau sự kiện Lehman Brothers sụp đổ.

Buffett cũng làm 1 deal tương tự với Bank of America. Berkshire cho các ngân hàng lớn nhất vay, đổi lại lấy cổ phiếu ưu đãi của những ngân hàng này với cổ tức hấp dẫn, và điều khoản mua thêm cổ phiếu ở 1 mức giá xác định trong tương lai. Goldman đã mua lại số cổ phiếu ưu đãi từ Buffett với giá cao hơn 10% hồi tháng 3/2011. Những cổ phiếu này trả cổ tức lên tới 500 triệu USD mỗi năm, tương đương 15 USD một giây, theo Reuters.

Buffett đánh cược vào sự phục hồi của ngành tài chính, và Ông đã bỏ túi hàng tỉ đô từ những vụ đầu tư lớn vào các ngân hàng trong thời kì khủng hoảng. chỉ 2 năm sau khi Buffett bỏ tiền vào Bank of America, ông đã đem lại cho các cổ đông Berkshire lợi nhuận dự kiến 5.27 tỉ USD.

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Cách phân loại doanh nghiệp của Buffett

Hiểu biết về mô hình kinh doanh của 1 doanh nghiệp có thể làm tăng biên an toàn rất lớn cho việc đầu tư, và là 1 công cụ tuyệt vời để chúng ta bảo vệ bản thân khỏi rủi ro thua lỗ. Trong thư gửi cổ đông năm 1997, Buffett viết:
“Nếu bạn hiểu một doanh nghiệp một cách hoàn hảo, và tương lai của nó, bạn hầu như không cần nhiều biên an toàn. Nếu doanh nghiệp rất dễ tổn thương, và bạn vẫn muốn đầu tư vào nó, bạn càng cần yêu cầu một biên an toàn cao. Nếu bạn đang lái một chiếc xe tải qua một cây cầu, chiếc xe đang chở 9800 pound, trong khi tỷ trọng cho phép là 10000 pound, và cây cầu có một vết nứt rộng khoảng 6 inch, bạn có thể cảm thấy vẫn an toàn. Nhưng nếu bạn lái chiếc xe này qua Grand Canyon,bạn sẽ thấy sợ và cần biên an toàn cao hơn.”
Buffett phân loại business thành 3 nhóm: tuyệt vời, tốt, và ăn hại. Theo ông, 1 business tuyệt vời :
·         Tạo ra rất nhiều tiền và chỉ chi tiêu ít
·         Phải có moat: lợi thế cạnh tranh bền vững để ko bị đe dọa từ đối thủ cạnh tranh và giúp doanh nghiệp kiếm được lợi nhuận cao.
·         Hoạt động ở 1 ngành ổn định.
·         Cần ít vốn đầu tư mà vẫn tăng trưởng tốt.
·         Có thể dễ dàng tăng giá bán sản phẩm mà không sợ mất thị phần hoặc giảm số lượng sản phẩm.
Hoặc ngược lại, Buffett từng viết: phải tránh đầu tư vào 1 doanh nghiệp:
·         Chi tiêu nhiều hơn số tiền kiếm được.
·         Có đội ngũ lãnh đạo tồi.
·         ROE thấp
·         Hoạt động trong ngành mà một công ty mới cũng dễ dàng gia nhập và thành công
·         Hoạt động trong ngành có nhiều biến động (bởi công nghệ, luật pháp…)
·         Cần nhiều vốn tái đầu tư hàng năm để tăng trưởng
·         Không có khả năng tăng giá bán
·         Không có khả năng gia tăng doanh thu nhanh chóng chỉ với một ít vốn đầu tư thêm
Trong khi đó, 1 business tốt được định nghĩa như sau:
·         Có lợi thế cạnh tranh vừa phải nhưng vững chắc. Lợi thế cạnh tranh sẽ tăng dần theo độ lớn và hiệu quả kinh tế về quy mô.
·         Cần phải có 1 thuyền trưởng chèo lái doanh nghiệp tốt để tạo ra xuất sinh lời cao trên vốn đầu tư.
·         Tỉ lệ tăng trưởng  từ vừa phải đến cao, và vì vậy đòi hỏi phải bơm thêm tiền hàng năm.
 Buffett từng đề cập rằng 1 ban lãnh đạo tốt cũng khó có thể khôi phục 1 doanh nghiệp làm ăn tệ hoạt động trong 1 ngành không hấp dẫn, như ngành dệt, hàng hóa hoặc hàng không. Mặc dù có 1 ban lãnh đạo tốt khi mua công ty dệt, nhưng công ty dệt của WB vẫn làm ăn không hiệu quả và phải bán đi vào năm 1985. Theo Ông ước tính, nếu bỏ tiền vào 1 business tốt hơn từ sớm thay vì chôn vốn ở ngành dệt, lợi nhuận của ông có thể đã tăng gấp đôi hiện tại. 1 doanh nghiệp ăn hại không là một vụ đầu tư tồi tệ mà còn khiến chúng ta mất chi phí cơ hội rất lớn.
Để tóm lược 3 loại doanh nghiệp tuyệt vời, tốt & ăn hại, WB viết:

“ hãy nghĩ về 3 tài khoản tiết kiệm. 1 tài khoản tuyệt vời cho bạn lãi suất rất cao & sẽ tăng năm nay qua năm khác. Tài khoản tốt cho lãi suất hấp dẫn, nhưng yêu cầu bạn phải nạp thêm tiền vào tài khoản hàng năm. Trong khi đó, 1 khoản tiết kiệm tồi vừa trả lãi suất thấp vừa bắt bạn phải nạp rất nhiều tiền vào mà không được hưởng lãi. “

Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2013

4 sai lầm khiến bạn luôn là nhà đầu tư thất bại

Làm sao để trở thành nhà đầu tư giỏi là câu hỏi phổ biến nhất trong giới đầu tư, đặt biệt là những người mới bắt đầu tập tành đầu tư. Nhưng đó là 1 câu hỏi sai lầm. Bởi hầu hết các nhà đầu tư đều không thắng được thị trường, nên rất khó để tìm được 1 công thức chiến thắng thị trường, cứ áp dụng mãi là ăn tiền mãi. Vì vậy, thay vì đặt mục tiêu trở thành nhà đầu tư giỏi như Buffet, trở thành nhà đầu tư bớt tệ hơn là mục tiêu hợp lí & khả thi. Trong đầu tư & bất cứ nghề nghiệp gì, ví dụ như chơi thể thao, người mới chơi nên tập trung tránh mắc sai lầm, các cao thủ mới nên luyện tập những sát chiêu cho riêng mình.
Dưới đây là 4 sai lầm lớn nhất mà các nhà đầu tư thất bại thường mắc phải:

1/ Không đa dạng hóa danh mục

Năm 1999, Khi các nhân viên Enron hỏi giám đốc nhân sự trong 1 cuộc họp: “ chúng tôi có nên đầu tư tất cả tiền hưu trí vào cổ phiếu Enron?  Vị giám đốc nhân sự cười & chém: “hiển nhiên, các bạn cứ tất tay vào Enrron”. Kết quả thế nào thì các bạn cũng đã biết.
Từ Enron đến General motors, Kodak hay Leman, hàng loạt các công ty to big to fail trên thế giới đều có thể phá sản. Những cổ phiếu tốt cũng có giai đoạn giảm giá liên tục, Apple cũng có lúc trượt dốc không phanh, vì vậy bạn nào tất tay vào VNM hay những best stocks khác cũng nên cân nhắc đa dạng hóa danh mục của mình.
Nhiều người nói Warren Buffett không áp dụng phương pháp bỏ trứng vào nhiều giỏ, nhưng Berkshire Hathaway của ông có 55 công ty con ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ báo chí, dược phẩm, máy bay phản lực…

2/ Trade quá nhiều

Giảm chi phí giao dịch là 1 điều tồi tệ với các nhà đầu tư, vì nó thúc đẩy họ trade quá nhiều. Các nhà đầu tư mới tham gia thị trường thường có xu hướng quá tự tin vào kĩ năng, kiến thức của bản thân, với niềm tin rằng mình sẽ dễ dàng chiến thắng thị trường. Đặt biệt có 1 sự kiện thường lặp lại, đó là những người mới vào thị trường thường chiến thắng trong 1 vài trade đầu. Giống như khi vào sòng bạc, nhà cái thường cho con bạc thắng vài ván để họ hăng máu. Tiền thắng bạc là tiền trên trời rơi xuống nên họ take risk rất cao ở những ván sau. Những điều này có vẻ đơn giản nhưng ngẩm lại tôi đều mắc phải & thua lỗ lớn vì những điều đơn giản đó. Cổ phiếu đầu tiên tôi mua là VSP, lãi 40% trong 2 tuần ở trade đầu tiên. Woa, không ngờ thị trường CK dễ kiếm tiền thế, lão phu ta đây, trình độ thế này phân tích chứng khoán thì chuẩn không phải chỉnh. Phải nghiên cứu chiến lược lướt sóng 2 tuần kiếm 40%. Cứ thế những cú lướt sóng của tôi sau này đã làm tài khoản bốc hơi liên tục.
Nhiều nghiên cứu của các nhà kinh tế các nhà đầu tư càng nhiều kinh nghiệm càng kiếm được nhiều tiền hơn. Và 1 đặc điểm chung của nhiều nhà đầu tư kinh nghiệm là họ trade rất ít. Ví dụ ở TTCK VN, dù downtrend hay uptrend thì năm nào cũng có 2 sóng lớn đủ để kiếm ăn &rút lui an toàn. Các nhà đầu tư kinh nghiệm thường tập trung canh 2 sóng này, thời gian còn lại nghỉ ngơi, nghiên cứu hoặc làm việc khác. Trong khi đó các nhà đầu tư dở thường thích phải ăn tất, sóng to sóng bé, đầu cá thân cá đuôi cá gì cũng phải bắt được hết. Trên diễn đàn Vfpress có rất nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp. 1 Vfer nổi bật là anh Comaogaotien. Nếu để ý bạn sẽ thấy cả 2 sóng lớn đầu năm 2012 & 2013, anh không phải là người bắt được đáy & rất thận trọng khi vào tiền. Đến khi có tín hiệu tốt a mới bắt đầu tham gia, & rút ra ngay khi có những dấu hiệu cảnh báo, mặc cho sau đó TTCK vẫn tăng thêm khoản 15% nữa trước khi rớt mạnh. Đó là cách đánh của nhà đầu tư chuyên nghiệp, nghĩ tới việc giữ tiền trước rồi mới nghĩ tới lợi nhuận.

3/ Lên kế hoạch dài hạn nhưng lại hành động theo tư tưởng ngắn hạn

Nhiều nhà đầu tư có những mục tiêu đầu tư dài hạn để nghỉ hưu sớm, mua nhà, mua xe mới, cho con đi học… nhưng thường hay động theo cảm xúc ngắn hạn. Khi thị trường lên, họ sẵn sàng tất tay những khoản tiền đầu tư dài hạn để ăn con sóng ngắn hạn. Khi thị trường xuống vài phiên, họ lại hoảng loạn bán tháo cổ phiếu, trong khi đó đối với khoản đầu tư dài hạn thì không cần quá bận tâm đến diễn biến thị trường ngắn hạn. Anh @Linhbach sẵn sàng chấp nhận giá chứng khoán giảm 30-50% & rất kỉ luật với cổ phiếu đầu tư dài hạn của mình. Đó là cách chơi chuyên nghiệp & chiến thắng được cảm xúc của mình khi thị trường đi xuống. Trader & investor tham gia TTCK bị cảm xúc chi phối quá nhiều rất khó thành công.

4/ Hỏi sai câu cần hỏi


Trên truyền thông, internet, các diễn đàn, room skype có rất nhiều chuyên gia, & câu hỏi trồng cây gì nuôi con gì, mua khi nào bán khi nào xuất hiện khắp nơi trong TTCK. Thay vì hỏi như vậy, bạn nên hỏi cách các cao thủ phân tích, nhận định, hỏi về xu hướng dài hạn để học tập & phát triển bản thân. Còn việc mua cổ phiếu nào còn tùy thuộc vào mức độ chấp nhận rủi ro & khả năng của mỗi nhà đầu tư. Không cao thủ nào có thể tư vấn cho bạn cả đời. Hãy nhớ mục tiêu dài hạn của chúng ta khi bước vào thị trường là trở thành 1 nhà đầu tư bớt tệ hơn so với lúc đầu, có thể tự dựa vào kiến thức & suy luận của mình để kiếm tiền. Cần hỏi bản thân những câu hỏi như: nếu trade đúng tôi được bao nhiêu, trade sai tôi mất bao nhiêu? Tại sao tôi nên đầu tư vào lúc này? Đó là những câu hỏi quan trọng nhất mà các cao thủ phím hàng không thể trả lời thay bạn được.  

Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013

Định giá quyền chọn bằng Black-Scholes model

Đối với trader & các nhà đầu tư phổ thông, giá trị quyền chọn gần như chẳng có ý nghĩa gì trong việc phân tích đầu tư. Nhưng với nhà đầu tư theo trường phái phân tích cơ bản, đặc biệt với dân công nhân tài chính thì tìm hiểu chút ít về option chắc chắn sẽ có đất để áp dụng.

Giả sử bạn định giá equity của HAG ra 17,5 ngàn tỉ VND, khối lượng cổ phiếu là 700tr cổ, thì fair value 1 CP HAG là 25k/cổ. Nhưng phép tính này chỉ đúng khi toàn bộ equity của HAG chỉ là common equity. Còn nếu HAG có loại equity khác như warrants, quyền mua cổ phiếu cho nhân viên, trái phiếu chuyển đổi, bạn phải trừ giá trị của đống options này ra trước khi định giá equity. ESOP & trái phiếu chuyển đổi là 2 loại options mà nhiều cổ phiếu Bluechips ở TT VN đã sử dụng.

Đối với trái phiếu chuyển đổi, trái chủ có quyền chuyển đổi trái phiếu thành 1 số lượng cổ phiếu nhất định. Tỉ lệ chuyển đổi (conversion ratio) nghĩa là 1 trái phiếu đổi được bao nhiêu cổ phiếu. Market conversion value nghĩa là giá trị cổ phiếu chuyển đổi được nếu trái chủ quyết định chuyển đổi ngay. Giá trị này lớn hơn giá trị hiện tại của trái phiếu gọi là Conversion premium. Quyền chuyển đổi  này chính là 1 call option trên underlying asset là cổ phiếu. Giá trị của Option bị tác động bởi các yếu tố sau:

-Giá underlying asset: nếu cổ phiếu công ty tăng giá thì quyền chọn mua ở 1 giá cố định sẽ càng có giá trị hơn.
-Tỉ lệ chuyển đổi
-Thời hạn của trái phiếu chuyển đổi: thời gian càng dài thì quyền chọn càng có giá trị
-Biến động giá cổ phiếu: biến động càng lớn thì quyền chọn càng có giá trị
-Lãi suất: lãi suất tăng thì quyền chọn mua cổ phiếu sẽ càng giá trị
-Cổ tức: cổ tức làm giảm tiềm năng tăng giá của cổ phiếu & giảm giá trị của option

Mô hình định giá quyền chọn phổ biến nhất hiện nay là mô hình Black-Scholes (1973). Mô hình này đoạt giả Nobel kinh tế năm 1997, mặc dù bị nhiều chuyên gia có tiếng buộc tội gây ra cuộc khủng hoảng năm 1987 tại Mỹ. 1 bài viết rất hay về option & mô hình BS ở đây. Công thức BS có vẻ phức tạp nhưng rất hữu ích trong việc định giá quyền chọn. Bạn hoàn toàn có thể tự định giá 1 quyền chọn trong trái phiếu chuyển đổi của MSN, HAG, GMD, FPT…bằng 1 vài phép tính excel không quá phức tạp, hoặc có thể vào trang web này để nhờ nó tính giúp. Chính vì sự đơn giản trong việc tính giá option như vậy, BS có thể coi là người khai sinh ra tài chính hiện đại. Với phép tính đơn giản này, thị trường chứng khoán phái sinh phát triển như vũ bão, nhiều chiến lược đầu tư phức tạp được các chuyên gia tài chính mày mò ra nhờ có BS model mới áp dụng được. Công thức định giá quyền chọn bằng BS như sau:


Chỉ cần thu thập đủ các dữ liệu về giá cổ phiếu, giá thực hiện quyền chọn, biến động giá cổ phiếu, lãi suất phi rủi ro, dividend yield, life của trái phiếu chuyển đổi, sau đó nhập vào excel tính toán theo công thức là xong. 

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

Việc làm ngành chứng khoán: chưa bao giờ khó khăn như lúc này!


Việc làm ngành chứng khoán đang bị thất sủng ở nhiều quốc gia, kể cả các quốc gia có thị trường tài chính lớn mạnh như Mỹ. Theo số liệu của bộ lao động Mỹ, số lượng nhân viên môi giới chứng khoán & hàng hoá tại phố Wall tháng 3/2013 là 101.200 người, rớt xuống mức thấp nhất trong lịch sử. Chưa bao giờ khó kiếm việc làm tại phố Wall như lúc này. Hơn nữa, kiếm 1 công việc tốt trong ngành chứng khoán-đầu tư đã khó, tồn tại được còn khó hơn rất nhiều.

Tình hình việc làm ngành chứng khoán-đầu tư ở Việt Nam hiện nay cũng quá ảm đạm. Trong năm 2012, đã có tổng cộng 11 công ty chứng khoán bị kiểm soát đặc biệt và 3 công ty ở mức bị kiểm soát. Thị trường thanh khoản kém, công ty không có lãi kéo theo lương thưởng của nhân viên chứng khoán bị cắt giảm mạnh. Không chỉ các công ty chứng khoán, ở các quỹ đầu tư có tiếng, nằm trong top ở Việt Nam cũng có những đợt cắt giảm nhân sự mạnh. 1 lực lượng nhân sự “khủng” này thất nghiệp khiến cho áp lực tìm việc làm trong ngành càng tăng lên nữa. 5-7 năm trở về trước, nếu bạn du học thạc sĩ tài chính ở nước ngoài, là ứng viên CFA level 3 tất nhiên sẽ trở thành hàng hot trong mắt nhà tuyển dụng ngành đầu tư tài chính này, rất nhiều quỹ đầu tư & CTCK sẽ trải thảm đỏ rước bạn. Nhưng thực tế đáng buồn hiện nay là có khá nhiều thạc sĩ nước ngoài, CFA level 3 vẫn đang đau đầu vì thất nghiệp dài hạn. Nhiều người bỏ tiền tỉ ra đi du học tài chính nước ngoài, về nước chưa có kinh nghiệm làm việc nên rất khó xin việc. Không tìm được cách gì hay hơn, xong Master, CFA họ đành phải học tiếp sang CMT, FRM trong lúc chờ việc.

Đối với những ai đang kiếm việc làm tài chính đầu tư, số lượng công việc ít, ứng viên apply toàn “hàng khủng” nên cạnh tranh gay gắt & thật khó khăn để kiếm được việc làm mong muốn. Đối với những người sinh nghề tử nghiệp trong ngành, đành thắt lưng buộc bụng tồn tại, chờ đợi thị trường phục hồi thu nhập sẽ tốt lên & có nhiều việc để làm hơn. Lời kêu gọi 1 cuộc giải cứu ngành chứng: “Hãy mua chứng khoán đi, đừng chần chờ nữa! “  

Thứ Sáu, 12 tháng 4, 2013

Đầu tư chứng khoán theo cách của Einstein


Albert Einstein có câu nói nổi tiếng: "Nếu tôi có một giờ để cứu thế giới, tôi sẽ dành 55 phút xác định vấn đề và năm phút thực hiện các giải pháp." Einstein nói rằng ông muốn dành thời gian của mình một cách khôn ngoan, đặt câu hỏi để hiểu được tường tận vấn đề. Khi làm xong điều đó, ông chỉ cần 5 phút để đưa ra các phương pháp giải quyết vấn đề.
Nhiều nhà đầu tư chứng khoán thường đi ngược lại phương pháp của tiến sĩ Einstein. Họ có khuynh hướng mở tài khoản, trading loạn xạ các thể loại, chiêu thức trước. Họ sẽ giao dịch đã đời trong 55 phút đầu tiên và sau đó dùng 5 phút cuối cùng cố gắng tìm ra mình đã sai ở đâu mà cháy mất tài khoản. Nhắm mắt lại & tưởng tượng thiên tài Anhxtanh đang ở bên cạnh khuyên bạn cách đầu tư cổ phiếu, ông sẽ khuyên bạn cách dùng 55 phút đầu tiên như sau:

1/ Bạn phải tích luỹ tài sản trước. Anhxtanh sẽ khuyên bạn khi chơi chứng khoán, giữ tiền quan trọng hơn là kiếm được tiền. Trước khi trade phải nghĩ đầu tiên đến việc mình sẽ mất bao nhiều tiền nếu trade, chứ không phải mình sẽ lời bao nhiêu tiền.
2/ Tiếp theo, Einstein sẽ hỏi bạn 1 loạt câu hỏi về cách quản lí tiền bạc & bắt bạn phải cam kết làm theo kế hoạch trading mà bạn viết ra giấy trước khi giao dịch. Rất tiếc là ít người có thể lên kế hoạch cụ thể trước khi trade. Mục tiêu của Einstein là muốn bạn hiểu tường tận trade của mình, tại sao mua, thị trường rủi ro như thế nào? Có đáng để mạo hiểm không?
3/ Einstein sẽ hỏi về kĩ năng quản lý của bạn, liệu bạn có ghi lại kĩ càng mỗi lần trade, bao nhiêu tiền, lãi lỗ ra sao & có rút ra bài học gì không
4/ Câu hỏi tiếp theo Einstein sẽ hỏi bạn là về kiến thức chuyên môn của bạn, kĩ năng ra quyết định. Bạn có đủ kiến thức  kinh nghiệm để kiếm tiền từ thị trường chưa?
5/ Bạn sẽ được hỏi về cách trading, cách phân tích thị trường & kết quả backtest của bạn. Liệu bạn có trade ảo cho thật nhuần nhuyễn vũ khí của mình trước khi trade bằng tiền tươi thóc thật không?
6/ Tiếp theo, ông ấy sẽ giám sát các lần trading của bạn để xem bạn có tuân thủ kỉ luật & phương pháp đề ra không.
7/ Cuối cùng, ông ấy muốn biết ý tưởng đầu tư, cổ phiếu bạn chọn đến từ đâu & tư duy như thế nào để chọn nó, tự đánh giá khách quan từ thị trường, chạy theo đám đông hay nghe lời tư vấn.

Rất nhiều nhà đầu tư không đủ kiên nhẫn dùng 55’ đầu tiên của mình để tìm hiểu bản thân, nghiên cứu thị trường, luyện tập thật kĩ mà chỉ muốn ra chiến trường múa kiếm để ăn sẹo, đổ máu thì nhớ mới lâu. Nhưng với 1 bộ óc vĩ đại như Einstein, thành công của 5’ sau cùng trên chiến trường đến từ 55’ chuẩn bị thật kĩ càng trước đó. Lincoln- 1 trong những tổng thống vĩ đại nhất Hoa Kỳ có câu nói nổi tiếng: “"Nếu cho tôi 6 giờ để chặt một cái cây, tôi sẽ dành 4 tiếng để mài rìu". Chúc các bạn mài được những chiếc rìu thật bén trước khi chặt đổ cây đại thụ Vnindex khó nuốt này nhé!  

Thứ Hai, 8 tháng 4, 2013

10 lí do khiến bạn không phải là nhà đầu tư giá trị


Với sự phát triển vũ bão của trường phái Phân tích kĩ thuật & Quant, số lượng nhà đầu tư theo trường phái đầu tư giá trị ngày càng ít. Không thể phủ nhận trở thành 1 trader, lính đánh trận với các bộ vũ khí hạng nặng MA, Ichimoku, sóng Elliot dễ chiến đấu & hứng thú hơn rất nhiều so với việc mày mò báo cáo tài chính, phân tích hoạt động kinh doanh, xác định giá trị nội tại & kiên nhẫn chờ đợi giá thị trường sẽ đạt đến giá trị nội tại kì vọng (mặc dù có thể giá thị trường sẽ chẳng bao giờ đạt được mức giá mình tính toán L ).
Bạn có phải là nhà đầu tư giá trị? Nhiều người cho rằng mình là nhà đầu tư giá trị, nhưng có thể sự thật không phải vậy. Dưới đây là 10 lí do khiến bạn không phải là 1 nhà đầu tư giá trị thứ thiệt giống Warren Buffett:
10/ Đầu tư dựa vào đồ thị giá: Nếu bạn mua bán chứng khoán dựa vào MA20, vai đít vai, cốc tay cầm…chắc chắn bạn không phải là nhà đầu tư giá trị. Nhà đầu tư giá trị không quan tâm có đúng là nếu giá vượt MA20 sẽ tăng mạnh, giảm mạnh khối lượng lớn là xả hàng…họ chỉ quan tâm mối quan hệ giữa giá cả và giá trị.
9/ Chỉ dùng chỉ số tài chính để đầu tư: bạn không phải là nhà đầu tư giá trị nếu chỉ mua cổ phiếu vì các chỉ số tài chính đẹp. Đầu tư giá trị chú trọng phân tích giá trị của hoạt động kinh doanh của công ty để ra quyết định đầu tư.
8/  Cố gắng ước tính EPS của công ty trong quý tới: nếu bạn quyết định không mua 1 cổ phiếu undervalued bởi vì dự đoán nó không đạt được EPS kì vọng trong quý tới, bạn không phải là value investor. Đầu tư giá trị không chơi trò chơi dự đoán, chỉ tìm cơ hội từ sự chênh lệch giữa giá cả và giá trị.
7/ Quyết định đầu tư dựa vào tư vấn của analyst: mặc dù nhờ sự tư vấn của các analyst danh tiếng có thể giúp bạn mua được nhiều cổ phiếu giá trị và sinh lời, nhưng ngay cả các analyst chưa hẳn đã là nhà đầu tư giá trị. Các analyst thường bị nhiều thiên lệch & bị nhiều chi phối từ khách hàng lớn mỗi khi đánh giá cổ phiếu. Họ thường khuyến nghị mua khi cổ phiếu đã có tín hiệu tốt & bắt đầu tăng giá, và khuyến nghị bán ngay khi giá cổ phiếu giảm mạnh hoặc công ty có vấn đề gì xấu.
6/ sử dụng P/E to Growth (PEG) để định giá doanh nghiệp: nếu bạn sẵn sàng trả giá cao hơn để mua cổ phiếu 1 công ty tăng trưởng nhanh, bạn có thể thuộc nhóm nhà đầu tư tăng trưởng (growth investor) hoặc chạy theo đám đông, không phải là nhà đầu tư giá trị. Value investor thứ thiệt sẽ dự phóng free cash flow từ business của công ty để định giá.
5/ Dùng EBITDA để đánh giá cash flow: EBITDA có ưu điểm là đã loại bỏ ảnh hưởng của đòn cân nợ và thuế, tuy nhiên cũng loại bỏ luôn ảnh hưởng của chi phí khấu hao. Chi phí khấu hao có ảnh hưởng lớn đến giá trị nội tại. Nếu chi phí này cao, có thể công ty đã dùng quá nhiều tiền để đầu tư tài sản cố định & giảm free cash flow cho cổ đông.
4/ Bạn lo lắng nếu không biết được diễn biến giá danh mục của mình như thế nào trong 1 năm tới: nếu bạn cần biết giá cổ phiếu hôm nay tăng giảm thế nào để biết danh mục mình đã tăng được bao nhiêu % rồi, bạn không phải là nhà đầu tư giá trị. Value investor không quan tâm đến lãi lỗ trong 1 ngày hay 1 tuần, họ chỉ quan tâm liệu business của công ty có thể đem lại bao nhiêu giá trị cho cổ đông & đem lại trong bao lâu.
3/ Mua cổ phiếu vì được ai đó phím hàng: nếu bạn vào hàng tất tay vì được 1 cao thủ có danh vọng nào đó phím hàng, (leo chung tàu với cao thủ phải an toàn hơn tự mình đầu tư), bạn không phải là value investor. Làm sao bạn biết giá trị nội tại cổ phiếu là bao nhiêu khi không biết mã cổ phiếu mình mua sản suất cái gì, tiềm năng ra sao.
2/ mua cổ phiếu khi thị trường cho cơ hội: thực tế thì chiến lược này không sai, ví dụ giai đoạn đầu năm 2012 & 2013 khi TT cho cơ hội thì mua gì cũng có ăn, khỏi cần phân tích, nhưng như vậy cũng không phải là value investor. Warren Buffett từng nói rằng thành công của value investor không phải là ngành đó hoặc công ty đó tăng trưởng nhanh như thế nào. Quan trọng là công ty đó có lợi thế cạnh tranh rõ ràng & lợi thế cạnh tranh đó duy trì ổn định. Cổ phiếu giá trị tiêu biểu là VNM vẫn cứ uptrend mãi, vì lợi thế cạnh tranh của công ty & của ngành hiện tại vẫn ổn định & rất mạnh. Trong khi đó các cổ phiếu hot như S96, PVX nếu hên cũng ăn được 100%, nhưng chỉ là cổ phiếu đầu cơ ngắn hạn. Nếu xui giống Niu Tơn thì bạn sẽ bị thua cháy túi, vì hoạt động kinh doanh của những công ty S96, PVX không có lợi thế cạnh tranh gì rõ ràng.
1/ Triết lí đầu tư của bạn không xem xét đến giá cổ phiếu: nếu bạn chỉ mua cổ phiếu chỉ vì công ty đã mở rộng được thị phần, mô hình kinh doanh công ty rất tiềm năng… mà không tham chiếu đến giá thị trường hiện tại, bạn cũng không phải là nhà đầu tư giá trị. Value investor không chú trọng diễn biến giá trong ngắn hạn, nhưng cũng phải dựa vào giá thị trường để tính toán cổ phiếu đang giao dịch dưới giá trị hay đã overvalue. Value investor không chỉ mua công ty tốt với giá thấp hơn trung bình, mà còn có thể mua những công ty trung bình với giá tốt.
Xét trên 10 tiêu chuẩn trên thì người viết cũng không phải là value investor. Tuy nhiên cũng không nhất thiết phải là nhà đầu tư giá trị, miễn sao chiến lược đầu tư của bạn giúp bạn kiếm được tiền ổn định & tự tin chiến đấu là được. Hơn nữa, chọn chiến lược nào còn tuỳ thuộc vào nền tảng kiến thức, vốn & kinh nghiệm chinh chiến của từng người. Tài khoản nhỏ, cần có dòng tiền để sống thì không đủ kiên nhẫn mua 1 cổ phiếu, nắm giữ vài ba năm như WB được.  Nhiều người kết hợp PTCB & PTKT thành trường phái đầu cơ giá trị để thích ứng với TTCK Việt Nam cũng là 1 cách rất sáng tạo. Không phải cứ áp dụng 100% lí thuyết để trở thành value investor “thứ thiệt” mới gọi là thành công.

Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Trả cổ tức: tính theo báo cáo tài chính hợp nhất hay của công ty mẹ?


Hiện nay có khá nhiều doanh nghiệp niêm yết có công ty con & phải cùng lúc phát hành báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ & báo cáo tài chính hợp nhất. Đọc & hiểu báo cáo tài chính hợp nhất có vẻ là 1 món ăn khó nuốt, kể cả đối với dân tài chính – đầu tư không chuyên về kế toán. Vậy báo cáo tài chính hợp nhất có ý nghĩa gì? Khi lợi nhuận của BCTC hợp nhất & BCTC công ty mẹ khác nhau thì cơ sở nào để công ty chia cổ tức?

Về vấn đề chia cổ tức, trước đây đã có tiền lệ của công ty Vinaconex (VCG) khi  quỹ lợi nhuận sau thuế trong BCTC hợp nhất năm 2009 là -72,94 tỷ đồng, trong khi  lợi nhuận sau thuế trong BCTC kiểm toán năm 2009 Công ty mẹ là 415,26 tỷ đồng. Rất nhiều nhà đầu tư thắc mắc là trường hợp này liệu doanh nghiệp có được chia cổ tức không? VCG cũng đã hỏi uỷ ban chứng khoán & nhận được trả lời bằng công văn số 508/UBCK-QLPH ngày 18/2/2011 nội dung chính như sau: (xem file đính kèm đầy đủ công văn)
“Về áp dụng các nguyên tắc trên để trả cổ tức, việc Tổng công ty thực hiện quyền của công ty mẹ để chi trả cổ tức phải căn cứ trên báo cáo tài kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất. Tuy nhiên, nếu kết quả hoạt động kinh doanh trên Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty mẹ nhỏ hơn trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất thì căn cứ trên báo cáo KQHD KD của công ty mẹ.”
Vì đã có công văn hướng dẫn nên các công ty khác nếu gặp trường hợp này mà cảm thấy lăn tăn thì vẫn phải làm đúng theo luật quy định. Tuy nhiên, công văn này vấp phải nhiều ý kiến trái chiều của các nhà đầu tư & các chuyên gia. Theo ông Bùi Văn Mai, Tổng thư ký Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cho biết: "BCTC hợp nhất không phải là BCTC mang tính pháp lý để xử lý các vấn đề tài chính như nộp thuế, phân phối lợi nhuận… mà phải căn cứ trên BCTC công ty mẹ, vì đây mới là BCTC mang tính pháp lý". Theo ông Mai, BCTC hợp nhất của một DN không phải thể hiện lãi/lỗ của DN đó trong năm tài chính, mà thể hiện thực trạng tài chính, kết quả hoạt động và các thay đổi tình hình tài chính của toàn bộ tập đoàn/hệ thống/nhóm công ty mẹ-con. Chính vì vậy, với BCTC hợp nhất, tình hình tài chính của Công ty mẹ không được thể hiện chính xác, mà chỉ có tác dụng xem xét sự phân bổ và sử dụng hiệu quả của toàn hệ thống. Do đó, ông Mai khuyến cáo: NĐT khi mua cổ phiếu của công mẹ thì nên tập trung chú ý vào tình hình tài chính thể hiện qua BCTC công ty mẹ, chứ không phải BCTC hợp nhất, vì đây mới là tài liệu thể hiện tình hình tài chính của DN mà họ đầu tư. Việc xem xét BCTC hợp nhất chỉ giúp NĐT có cái nhìn tổng quan về cả hệ thống.”
Anh Phạm Thứ Triệu cũng viết 1 bài rất hay về vấn đề này trên saga: http://saga.vn/Taichinh/Thitruong/22302.saga

Đây là vấn đề khá nặng về kiến thức kế toán nên thật khó để diễn giải 1 cách dễ hiểu cho người đọc phổ thông. Ý kiến cá nhân của mình là đồng ý 100% với nhận xét của ông Mai. Việc UBCK quy định chia cổ tức theo kết quả hợp nhất (hoặc là theo BCTC công ty mẹ nếu lợi nhuận công ty mẹ nhỏ hơn) là khá củ chuối và không logic với chuẩn mực kế toán. Chuẩn mực kế toán số 25 có quy định cách hợp nhất báo cáo tài chính. Hiểu 1 cách đơn giản, ở BCTC công ty mẹ, chúng ta xem các công ty con như là 1 khoản đầu tư dài hạn & chiếm 1 phần trong tài khoản 221- đầu tư vào công ty con. Các công ty con có lãi hay lỗ công ty mẹ sẽ được ăn chia theo phần trăm sở hữu.  Như ông Mai nói, BCTC hợp nhất không có tính pháp lý, nó không thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp mà bạn đầu tư. BCTC hợp nhất chỉ cho ta bức tranh tổng thể về cả tập đoàn, khi tiến hành hợp nhất bằng cách cộng dồn các tài khoản tương ứng, kết hợp với loại trừ các giao dịch nội bộ, lãi các giao dịch nội bộ chưa thực hiện. Ví dụ công ty mẹ có lãi rất lớn nhưng chủ yếu chỉ là bán hàng cho công ty con. Nếu công ty con mua hàng từ mẹ & đã bán cho bên thứ 3 thì không sao, nhưng nếu vẫn chưa bán cho bên thứ 3 thì xem như chưa thực hiện. Trường hợp này ở BCTC công ty mẹ vẫn cho ghi nhận doanh thu, lợi nhuận nhưng khi lên báo cáo hợp nhất sẽ loại trừ, chỉ tính những doanh thu đã bán ra ngoài, không tính những khoản chỉ bán qua bán lại trong gia đình.

Trường hợp logic về tính lợi nhuận theo BCTC công ty mẹ ở trên chắc vẫn chưa giúp bạn hiểu ra được sự khác nhau giữa công ty mẹ và BCTC hợp nhất. Ta hãy chuyển từ việc chia lời sang việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Ví dụ 1 gia đình có 3 công ty A(mẹ) với 2 con là B, C tiền thuế mỗi công ty phải đóng là 50đ, 25đ & 0đ. Khi hợp nhất BCTC, cộng ngang cộng dọc loại trừ tứ tung, có thể tổng tiền thuế phải đóng sẽ là 62.5đ. Không lẽ tập đoàn lại đòi lại tiền ông thuế với lí do hợp nhất tui chỉ lãi 250đ nên đã đóng dư tiền thuế 12.5đ. Tất nhiên thuế không hoàn lại vì ông thuế chỉ túm 3 ông có tóc là A,B,C có đăng kí thành lập doanh nghiệp và dựa trên BCTC của 3 ông để đánh thuế thôi. Ông hợp nhất là ông nào, đâu có đăng kí là 1 pháp nhân với thuế. Tương tự, nếu hợp nhất ra số thuế phải đóng nhiều hơn, vậy tập đoàn lấy thêm tiền của A, B, hay C và mỗi ông lấy bao nhiêu để đóng thêm tiền thuế? Tất nhiên không ông nào chịu đóng thêm vì lợi nhuận tui có nhiêu đó, đâu thể bắt tui đóng nhiều hơn nghĩa vụ phải làm được. Đó là lí do vì sao BCTC hợp nhất không có giá trị pháp lý.

Túm lại, khi phân tích đầu tư thì bạn có thể dùng BCTC hợp nhất để đánh giá tiềm năng, lợi nhuận của tập đoàn. Còn khi bàn đến chuyện nộp thuế, phân phối lợi nhuận… thì phải căn cứ trên BCTC công ty mẹ, vì đây mới là BCTC mang tính pháp lý. Tuy nhiên, UBCK đã hướng dẫn dựa vào BCTC hợp nhất (hoặc mẹ nếu hợp nhất> mẹ) thì có lẽ doanh nghiệp đành phải làm theo hướng dẫn này. Mình không biết UBCK đã có văn bản nào khác cập nhật về vấn đề này hay chưa? Dựa trên phân tích ở trên, dùng BCTC của công ty mẹ làm cơ sở chia cổ tức là hợp lý hơn.

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

Doanh nghiệp bất động sản ghi nhận doanh thu như thế nào?


-Về nguyên tắc chung theo chuẩn mực kế toán 14, Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn năm 5 điều kiện sau:
+ Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua;
+ Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa;
+ Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;
+ Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;
+ Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Tuy nhiên, với  1 loại hàng hoá đặt biệt là bất động sản thì có phần phức tạp & dễ nhầm lẫn hơn so với bán các hàng hoá bình thường. Vì vậy với các nhà đầu tư cá nhân không nắm vững về nguyên tắc kế toán khó mà biết được 1 nghiệp vụ bán nhà, chung cư, từ khi khách hàng đặt tiền cọc mua nền, trả tiền theo tiến độ hợp đồng thì doanh nghiệp có được ghi doanh thu không? Nếu cty đã nhận tiền cọc trước nhưng đến khi bàn giao nhà mới được ghi doanh thu thì sẽ ảnh hưởng đến cashflow của cty BĐS như thế nào?
Nếu bạn quan tâm đến BCTC các doanh nghiệp BĐS niêm yết thì có thể thấy hầu hết các báo cáo sau kiểm toán đều phải điều chỉnh giảm doanh thu rất nhiều. Như vậy không chỉ nhà đầu tư cá nhân, mà cả những người làm trong ngành (không hiểu vô tình hay cố ý) vẫn hạch toán sai doanh thu bất động sản. Tiêu biểu nhất đó là trường hợp của Petroland ở báo cáo năm 2011, khi Petroland dùng thủ thuật thay đổi phương pháp kế toán “xoành xoạch” giữa các năm để tăng doanh thu lợi nhuận cho năm 2011, biến lỗ thật thành lãi giả. (Tất nhiên Petroland đã tự “kiểm điểm”, nghiêm túc rút kinh nghiệm  về việc “chậm công bố thông tin”)
Đối với bất động sản thì có 2 phương pháp ghi nhận doanh thu là POC (Percentage of completion) & ghi nhận 1 lần sau khi đã bàn giao sản phẩm cho khách hàng. Nhưng cần phân biệt rõ sản phẩm bất động sản là loại nào để áp dụng phương pháp ghi nhận doanh thu cho đúng. Không được áp dụng song song cả 2 phương pháp cho mọi trường hợp. Đối với các doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng dự án, chung cư (ví dụ như TDH chỉ chuyên xây chung cư để bán) chỉ được ghi nhận doanh thu khi đã xây dựng xong & làm biên bản chuyển giao nhà cho khách hàng. Lúc đó mới đủ cơ sở để kết luận là doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro & lợi ích cho người mua. Nhiều doanh nghiệp dạng này cố tình làm tăng doanh thu bằng cách ghi nhận doanh thu theo POC, hoặc tệ hơn là theo tiến độ thanh toán, điều này là sai nguyên tắc ghi nhận doanh thu của chuẩn mực 14. Khoản tiền khách hàng trả trước chỉ được ghi vào “tài khoản người mua trả tiền trước” , hoặc “doanh thu chưa thực hiện”.
Đối với trường hợp doanh nghiệp là nhà thầu xây dựng, thi công công trình theo hợp đồng thì phải ghi nhận doanh thu theo tỉ lệ khối lượng xây dựng hoàn thành (POC) theo quy định tại chuẩn mực 15. Phần trăm hoàn thành có thể xác định bằng cách xây dựng chi phí dự toán dựa trên doanh thu có thể đạt được theo hợp đồng. Từ đó, doanh nghiệp lấy chi phí xây dựng thực tế chia cho tổng chi phí dự toán để biết được mình đã hoàn thành bao nhiêu % tiến độ thi công.
Trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng những năm gần đây, các công ty BĐS thường dùng các thủ thuật đẩy mạnh doanh thu cuối năm để làm đẹp báo cáo tài chính. 1 trong các thủ thuật thường được doanh nghiệp BĐS áp dụng đó là cho phép khách hàng nhận nhà khi mới chỉ trả 50% tiền theo tiến độ, kèm theo điều khoản có thể trả lại nhà nếu không vừa ý. Đặt biệt nếu người mua là các bên có liên quan của doanh nghiệp thì thủ thuật này càng khó bị phát hiện. Vì vậy khi phân tích BCTC các doanh nghiệp BĐS, nếu thấy doanh thu tăng mạnh, đặc biệt đột biến ở tháng cuối năm thì bạn cũng chớ nên quá vui mừng, hãy phân tích thật kĩ doanh thu đến từ nội lực doanh nghiệp, hay chỉ là các chiêu trò kế toán nhé!

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

Chỉ số chứng khoán – yếu tố rất quan trọng đối với đầu tư tài chính


Các chỉ số chứng khoán nổi tiếng trên thế giới thường được ra đời nhờ các tờ báo lớn, ví dụ như Wall Street Journal tạo nên chỉ số Dow Jones, hay chỉ số Nikkei của Nhật Bản, chỉ số DAX của Đức. Các chỉ số này chỉ tính dựa trên giá các cổ phiếu trong rổ, không tính khối lượng vào. Mặc dù chỉ số chứng khoán đã có ở nhiều quốc gia từ trước những năm 1960, đến năm 1968 mới có 1 chỉ số chứng khoán có thể dùng làm tham chiếu (benchmark)để tính hiệu quả đầu tư. Đó là chỉ số Morgan Stanley Capital International (MSCI) được xây dựng bởi Capital Group. Chỉ số này ưu việt hơn các chỉ số trước đó bởi nó tính theo market-cap weighting, công khai các thành phần của chỉ số cũng như cung cấp số liệu quá khứ của các cổ phiếu trong chỉ số. Tuy nhiên, nhược điểm của chỉ số này là nó chỉ bao gồm 60% vốn hoá thị trường của những quốc gia & ngành có trong chỉ số.
Khi quản lý danh mục đầu tư, bạn cần phải có 1 chỉ số nào đó làm benchmark để đánh giá kết quả của Fund manager. Một index được tạo thành từ càng nhiều ngành & công ty trên thị trường thì nó càng phản ánh đúng diễn biến thị trường. Các tính index cũng là 1 đặc điểm vô cùng quan trọng của 1 chỉ số chứng khoán. Ba phương pháp cơ bản đó là tính tỉ trọng theo giá (price weighted), theo giá trị (Value weighted) & tỉ trọng tất cả đều bằng nhau (equal weighted).
Mỗi cách tính chỉ số bị thiên lệch theo những cách khác nhau. Đối với Price weighted, giả sử Vnindex được tính theo Price weighted thì cổ phiếu GMD tăng 3% chỉ có tác động vào Vnindex bằng 1% tăng giá của MSN, vì giá MSN cao gấp 3 lần GMD. 1 chỉ số nổi tiếng dùng phương pháp price weighted này là Nikkei 225, nhưng nó đã bỏ những cổ phiếu có giá rất cao ra khỏi index để tránh việc index bị bóp méo bởi các cổ phiếu giá cao này.  
Đối với value weighted index, giống như cách tính chỉ số Vnindex hiện nay, ta hay thấy những phiên “xanh vỏ đỏ lòng”, đội lái dùng các mã vốn hoá cao để đỡ index “xả hàng”… đó là vì tính chỉ số theo vốn hoá thị trường sẽ bị thiên lệch bởi các cổ phiếu có vốn hoá lớn. 1 nhược điểm nữa của loại chỉ số này là nó không điều chỉnh cho lượng cổ phiếu free float ( những cổ phiếu trôi nổi mà nhà đầu tư có thể mua được). Ví dụ ở Việt Nam, vốn hoá của các index thường cao hơn thực tế, cao hơn giá trị mà nhà đầu tư có thể mua bán được. Các công ty lớn hoặc cùng chung 1 họ PV hay VC, SD thường nắm giữ 1 lượng lớn cổ phiếu của nhau. Như vậy không phải tất cả cổ phiếu của những công ty niêm yết đều có thể đem ra trade được. Chỉ số gặp tình trạng này đã tính double giá trị của 2 công ty nắm giữ cổ phiếu của nhau. Vì vậy 1 chỉ số muốn phải ánh đúng vốn hoá của toàn thị trường chỉ nên tính phần cổ phiếu có thể trade được (free float).
Thực tế, nhiều cao thủ TA ở VN đã tự xây dựng 1 chỉ số chứng khoán riêng cho mình để loại bỏ hiệu ứng của nhóm các cổ phiếu vốn hoá lớn ra. Cách làm này được áp dụng & hướng dẫn làm đầu tiên trên internet là từ anh Vietcurrency (theo người viết biết) dựa trên công cụ composite Index của Amibroker.

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

Compound Annual Growth Rate (CAGR)-những điều cần biết


Thỉnh thoảng khi đọc các báo cáo hoặc bài viết tiếng Anh về thị trường, tài chính, bạn sẽ gặp thuật ngữ Compound Annual Growth Rate (CAGR)- tạm dịch là tỉ lệ tăng trưởng kép hàng năm ( dịch tối nghĩa quá). Ví dụ như đoạn này:” The non-food retail sales grew at a robust CAGR of nearly 22% during 2005-2008” (trích báo cáo của VCSC) người đọc hiểu là sell ngành này tăng trưởng 22% trong giai đoạn 2005-2008, nhưng tính thế nào để ra được con số 22% thế này?
CAGR là phép tính tỉ lệ tăng trưởng smooth hơn, giống như tính suất sinh lời theo nguyên tắc ghép lãi. Giả sử bạn đầu tư chứng khoán 1 tỉ ở năm 2012, & cuối năm 2012 tài khoản đã tăng lên 3 tỉ, lãi 200%. Nhưng năm 2013, thị trường đi xuống, bạn lỗ lại 50%, cuối năm 2013 chỉ còn 1.5 tỉ. Vậy suất sinh lời trong giai đoạn này là bao nhiêu? Nếu trung bình đơn giản, năm đầu lãi 200%, năm 2 lỗ 50%, vậy trung bình 2 năm lãi= (200-50)/2= 75% không phải ánh đúng suất sinh lời thực. Trong trường hợp này, bạn đã biết giá trị ban đầu & giá trị tương lai, cần tính lãi suất nào để biến khoảng 1 tỉ thành 1.5 tỉ trong 2 năm ( giống như tính IRR của dự án). Công thức tính CAGR như sau: CAGR  =   (FV / PV)^1 / Y  -  1 
Áp công thức vào ví dụ trên tính ra CAGR bằng 22.47%. Hình vẽ dưới đây cho thấy độ mượt của CAGR

Nhà đầu tư có thể dùng CAGR để so sánh 2 cổ phiếu tăng trưởng như thế nào trong 1 khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, lợi nhuận đầu tư biến động rất mạnh, điểm yếu của CAGR là nó không thể hiện được biến động của khoảng đầu tư. Ví dụ trên, 1 nhà đầu tư có suất sinh lời 22.47% trong 2 năm có vẻ ổn, nhưng nếu biết mức độ biến động lợi nhuận của anh ta lớn như vậy thì cũng đáng lo ngại. Hoặc 1 công ty tuy CAGR lợi nhuận cao nhưng nếu biến động quá lớn giữa các năm sẽ khiến nhà đầu tư hoài nghi về sự ổn định của business model
1 điểm yếu nữa của CAGR là nó rất nhạy cảm với việc bạn lựa chọn thời điểm bắt đầu để tính CAGR. 1 fund manager có thể khoe rằng anh ta có CAGR rất ấn tượng, 50% trong 2 năm qua. Nhưng thực tế, con số 50% là do a ta chọn thời điểm thị trường ở đáy để tính. Nếu chọn thời gian là 5 năm thì có thể CAGR của FM này sẽ âm vì trót mua ở đỉnh cao chót vót, mua đáy chạy đỉnh vài lần vẫn chưa hoà vốn được.      

Thứ Sáu, 22 tháng 2, 2013

Những câu hỏi phỏng vấn chuyên ngành cần chuẩn bị khi xin việc ở vị trí phân tích đầu tư


2 năm vừa qua, với sự đi xuống của TTCK, rất khó để xin được việc làm ngành chứng khoán – đầu tư vì nhiều công ty CK, quỹ đầu tư cắt giảm nhân sự nhiều hơn là tuyển thêm.  Trong bối cảnh việc làm ít mà cạnh tranh thì gay gắt, muốn có 1 vị trí đúng với năng lực & nguyện vọng của mình đòi hỏi ứng viên phải chuẩn bị thật kĩ từ nền tảng kiến thức tốt, kinh nghiệm phù hợp, CV ấn tượng. Nhưng sự thể hiện bản thân ở vòng phỏng vấn mới là quan trọng nhất trong quá trình kiếm việc. Dưới đây là 1 số câu hỏi phỏng vấn về kiến thức chuyên ngành cho vị trí phân tích đầu tư bạn nên tập thật kĩ trước buổi phỏng vấn:
1/ Những tính cách nào cần có của 1 chuyên viên phân tích đầu tư giỏi?
2/ Triết lý đầu tư của bạn là gì?
3/ Bạn có đang nắm giữ cổ phiếu nào ko? Vì sao bạn lại chọn mua cổ phiếu đó?
4/ Bạn nghĩ TTCK năm nay sẽ diễn biến ntn? Tại sao?
5/ Các cách thường dùng để định giá 1 doanh nghiệp? Bạn biết gì về phương pháp Discount FCF và pp relative valuation?
6/ Discount rate dùng cho phương pháp DCF tính như thế nào?
7/ WACC là gì, tính như thế nào?
8/ Tính Cost of debt & Cost of equity như thế nào?
9/ Cách nào để Định giá 1 doanh nghiệp có FCF âm?
10/ Chỉ số P/E là gì? Làm sao biết cổ phiếu là rẻ hay đắt khi biết P/E?
11/ Bạn nắm vững về ngành nào nhất? Theo bạn báo cáo tài chính của 1 công ty như HSG sẽ có đặc điểm gì nổi bậc về Báo cáo lãi lỗ, giá vốn hàng bán, lợi nhuận biên?
12/ Bạn đã từng sử dụng mô hình định giá nào trước đây chưa?
13/ Theo bạn, lãi suất & tỉ giá năm nay sẽ biến động như thế nào?
Những câu hỏi này người viết tổng hợp từ internet & từ kinh nghiệm đau thương của những lần phỏng vấn thất bại (những câu này xác suất bị hỏi rất cao!). 

Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

When to sell?


Giống như nhóm bạn Nôbita ở trên, tôi chỉ thích mua cổ phiếu, múc húc xúc, giữ cổ phiếu, khi bán thì phải CE chục phiên bán mới đã. Ước gì mình giỏi được như W. Buffett, mua cổ phiếu giữ cả chục năm, ăn vài chục lần mới bán. Tuy nhiên, tôi không chọn cổ phiếu giỏi như WB, nhiều lúc cổ phiếu không đi đúng kì vọng, hoặc 1 cổ phiếu tốt hôm nay nhưng có thể sẽ rất xấu vào ngày mai, cần phải đưa ra quyết định bán hợp lý.  Thực tế thì việc chọn thời điểm bán thường khó hơn việc chọn thời điểm mua. Nhưng chính điều này mới giúp chúng ta hiện thực hoá lợi nhuận hoặc cắt lỗ kịp thời để còn sống sót tiếp tục cuộc chơi. Dưới đây là 1 vài tín hiệu cho thấy đã đến lúc nghĩ đến việc bán cổ phiếu. Những tín hiệu này chắc chắn không phù hợp với tín đồ T/A hoặc các cao thủ mua đáy bán đỉnh, tuy nhiên nếu mục tiêu trước mắt của bạn là hạn chế thua lỗ thì đọc qua 1 vài tín hiệu này hi vọng sẽ có ích phần nào:

Tín hiệu 1: Chỉ số P/E của cổ phiếu bạn đang giữ đột nhiên tăng quá nhanh

Đối với nhà đầu tư dài hạn, chỉ số P/E đơn giản nhưng luôn là indicator chính xác nhất. PE ratio là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá cổ phiếu mắc hay rẻ. Khó có thể khẳng định P/E bao nhiêu là cao hay thấp, nó chỉ thể hiện kỳ vọng của nhà đầu tư vào earning của công ty. Nếu sự kỳ vọng này cao, thì người ta sẵn sàng trả một giá cao cho một công ty. Tuy nhiên, nếu so sánh với 1 công ty tương tự nhưng có P/E thấp hơn, cổ phiếu của công ty có P/E cao có thể đã overpriced, và nếu earning không đáp ứng được kì vọng quá cao của nhà đầu tư thì chắc chắn nó sẽ rớt thảm. Cổ phiếu Apple rớt giá là 1 ví dụ cho trường hợp này. Apple rớt giá không phải vì nó dỏm, mà là vì nhà đầu tư kì vọng quá cao vào Apple nên mới trả 1 mức giá trên trời cho nó. Khi niềm tin vụn vỡ thì cổ phiếu tốt như Apple cũng bị bán tháo như thường. Nếu nói vuốt đuôi TTCK Việt Nam thì đỉnh điểm năm 2007 TTCK chúng ta có P/E lên đến gần 30, 1 mức quá cao cho bất cứ TTCK nào, & vấn đề bán tháo chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
Túm lại, P/E cao không có nghĩa là cổ phiếu đó đã overvalued, nhưng nếu nó đã cao so với trung bình ngành & thị trường chung thì tốt nhất nên chốt lãi cho an tâm.

Tín hiệu 2: Lợi thế cạnh tranh của công ty không còn nữa

Khi 1 công ty thống lãnh thị trường, tạo ra sản phẩm chất lượng, giá thấp… những lợi thế cạnh tranh này làm cho nhà đầu tư sẳn sàng bỏ nhiều tiền ra mua cổ phiếu của công ty đó. Trước đây khi nhắc đến 1 công ty IT người ta sẽ nghĩ ngày đến FPT. Nhưng khi FPT không giữ được vị thế độc tôn ở core business của mình, phân tán sức sang các lĩnh vực bán lẻ, chứng khoán, ngân hàng cũng không thành công, giá cổ phiếu FPT tụt dốc là không tránh khỏi. Lúc này VNM đang là cổ phiếu no.1 & là hãng sữa No.1 ở VN, nhưng nếu lỡ có thêm nhãn hiệu mắm VNM, công ty CK VNM thì lúc đó hãy coi chừng. Nếu 1 công ty có dấu hiệu suy yếu trong lĩnh vực chủ chốt của mình & phải kiếm ăn sang lĩnh vực khác là 1 tín hiệu để bán!

Tín hiệu 3: công ty thay đổi giám đốc & ban lãnh đạo đột ngột

Nếu những nhà quản lý cấp cao, những người chịu trách nhiệm về sự thành công của doanh nghiệp, bắt đầu rời bỏ công ty thì có thể xem đó là dấu hiệu bất lợi cho tương lai của công ty. Khi đó, các nhà đầu tư cần phải theo dõi và phát hiện xem tại sao lại có những thay đổi như vậy. Nhiều người mua cổ phiếu Apple vì tin tưởng vào tài phép của Steve Jobs sẽ cho ra đời nhiều sản phẩm đột biến hơn nữa. Nhưng khi Apple không còn Steve nữa, có chắc là Apple vẫn sẽ tăng trưởng và sáng tạo được như xưa? Lúc này cần đánh giá lại tác động của việc thay đổi ban lãnh đạo & canh bán nếu không chắc về tài năng của ban lãnh đạo mới.

Tín hiệu 4: doanh số bán hàng của công ty không ổn định hoặc giảm mạnh

Nền kinh tế khắc nghiệt như hiện nay thì rất khó để 1 công ty có thể tăng trưởng doanh số liên tục, tuy nhiên việc doanh số cứ giảm dần dần là tín hiệu báo động rằng công ty gặp khó khăn trong việc bán hàng. Lợi nhuận có thể kiếm hoặc bùa chú từ nhiều nguồn, nhưng doanh thu giảm chứng tỏ người tiêu dùng không muốn bỏ tiền mua sản phẩm của doanh nghiệp như trước. Đặc biệt nếu đối thủ cạnh tranh vẫn tăng trưởng doanh thu bình thường thì càng chứng tỏ sản phẩm của công ty không đấu lại đối thủ, lúc đó nên nghĩ đến việc bán cổ phiếu đi.  

Tín hiệu 5:  Lợi nhuận và cổ tức giảm sút

Ban quản trị công ty luôn muốn đưa những tín hiệu tốt về viễn cảnh tương lai của mình ra thị trường. Nhưng hành động của công ty có giá trị hơn những lời tuyên bố.  Nếu là do ban quản trị công ty quyết định không chia cổ tức để tập trung vốn cho việc phát triển và mở rộng quy mô công ty, thì đó lại là điều tốt và cổ phiếu sẽ tăng giá trong tương lai (nhớ check lại báo cáo tài chính khoản mục xây dựng cơ bản & chi phí nghiên cứu phát triển xem có đúng là đầu tư nghiên cứu thật không). Nhưng thông thường thì sự sụt giảm về lợi nhuận và cổ tức là dấu hiệu xấu cho thấy tương lai của công ty gặp nhiều khó khăn, cần cân nhắc việc bán cổ phiếu đi.

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Benjamin Graham:Kĩ năng hay may mắn?

Chúng ta thường nghĩ rằng các nhà đầu tư huyền thoại như Peter Lynch, George Soros, John Templeton, Warren Buffett, Benjamin Graham đều là thiên tài kiệt suất và chiến thắng thị trường bằng những kĩ năng, kiến thức của họ. Nhưng cũng có nhiều người cho rằng may mắn đóng vai trò rất quan trọng trong kết quả đầu tư của các huyền thoại trên.

Benjamin Graham, chưởng môn phái đầu tư giá trị, sư phụ của W. Buffett được xem là nhà đầu tư giỏi nhất của thế kỉ 20 với tuyệt học “The Intelligent Investor” phổ biến trên toàn thế giới. Thành tích của ông là đánh bại Mr. Market trong hơn 2 thập kỉ với suất sinh lời cao hơn thị trường ít nhất 2.5% mỗi năm. Khi được Financial Analysts Journal hỏi về bí kíp (năm 1976) thì ông thừa nhận: “thành quả đầu tư của tao phần nhiều nhờ ăn hên thôi, không có tuyệt kĩ gì đâu (đúng với tôn chỉ 1 lần khiêm tốn bằng 4 lần tự cao của bậc minh chủ võ lâm). Tao làm biếng phân tích định giá để tìm 1 cổ phiếu undervalue, vì nghiên cứu cho lắm, tốn công tôn tiền mà chưa chắc đã tìm ra được hàng hot. Vì vậy tao quan tâm nhiều hơn đến toàn thể danh mục, chọn đại ít nhất 30 cổ đáp ứng 1 số tiêu chí riêng của tao, ví dụ hàng nhẹ mông PE<10, nợ/Vốn chủ thấp hơn 50%, …giữ đến khi ăn được 50% thì té. Nếu giữ hàng đến năm thứ 2 mà nó ko tăng giá như dự định thì giá nào cũng té, tìm hàng khác nuôi trồng. Cách anh đơn giản zị thui, chú không tin cứ về làm thử xem 5 năm sau có ăn được trên 100% ko”

1 cây bút nổi tiếng về tài chính - John P. Reese của tạp chí Forbes là 1 fan hâm mộ cuồng nhiệt của Ben & đã nghiên cứu rất kĩ chiến lược đầu tư của ông. Những năm 1936-1956, suất sinh lời hàng năm của Ben luôn trên 20%, so với thị trường chung là 12.2%. Reese có vẻ đã tìm ra chén thánh & kiêm quyết làm theo cách của Graham trong kiếm phổ “ nhà đầu tư thông minh” . Và kết quả là danh mục của John đạt lợi nhuận gộp là 224.3% (trung bình năm là 13.3%) trong 10 năm qua, trong khi đó suất sinh lời của S&P 500 chỉ là 3.9% mỗi năm. Nếu chỉ tính trong năm 2012, suất sinh lời của S&P 500 là 13.7% thì danh mục theo phương pháp của Graham tăng hơn gấp đôi TT chung, đạt 28.5%. John đã viết 1 bài về Graham, dùng trải nghiệm thực tế của mình để kết luận rằng Graham đúng là thiên tài & thành công của ông không phải là may mắn.

Nếu bạn bỏ 100$ vào thị trường và cổ phiếu theo phương pháp đơn giản của Graham, kết quả như sau:


Từ 100$ vốn, bạn đã có 36,354$ vào cuối năm 2011. Trong khi đó tính theo suất sinh lời của S&P 500 thì chỉ tăng lên được 4,351$, tức là phương pháp Graham lời gấp 9 lần so với thị trường chung. Tuy nhiên, danh mục của Graham có volatility cao, Stardard Deviation lên đến 23.9%, so với S&P500 là 15.4%. Lí do là vì khi thị trường chung xấu, các cổ phiếu dưới giá trị, chưa được thị trường ngó tới sẽ càng bị bán tháo mạnh hơn nữa khi khủng hoảng.

Ví dụ trên có thể thấy thành công của Graham có được là do kĩ năng chọn cổ phiếu & sự lì lợm, quyết đoán, kỉ luật với chiến lược đầu tư mình đề ra. Nếu bạn chưa tìm được chén thành nào đáng tin tưởng để đặt tiền vào, hãy nghiên cứu cách làm đơn giản của Graham & áp dụng vào TTCK Việt Nam xem sao. Chân lí nhiều khi đơn giản ngay trước mắt, nhưng người ta lại có xu hướng tin tưởng vào những thuật toán, program phứt tạp, đắt tiền, mặc dù chẳng hiểu được nguyên lý nào mà con robot của mình hô buy hay sell.

Khi nói về tư chất của một nhà đầu tư giỏi, Buffett cho rằng, một nhà đầu tư giỏi không nhất thiết phải là một thiên tài. “Bạn không cần phải là một nhà khoa học tên lửa. Đầu tư không phải là một trò chơi mà một người với chỉ số IQ 160 thắng một người có chỉ số IQ 130”

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2013

Đầu tư chứng khoán: siêu mèo Orlando thắng cả Fund Manager


Cuộc thi đầu tư chứng khoán giữa 1 em mèo tên Orlando và các Fund manager:Justin Urquhart Stewart của  Seven Investment Management, Paul Kavanagh của Killick & Co, và  Schroders, fund manager của quỹ Andy Brough, đội thứ 3 là các em học sinh cấp 2 trường John Warner School.
Cuộc thi do nhật báo Observer nổi tiếng ở Anh tổ chức. Mỗi đội có 5,000$, được đầu tư 5 cổ phiếu của FTSE từ đầu năm 2012. Sau 3 tháng, mỗi đổi có quyền tái cơ cấu danh mục. Đến tháng 9, 3 anh Fund Manager đẹp trai hả hê khi kiếm được gần 500$, trong khi em mèo Orlando chỉ lãi 292$. Nhưng tổng kết cuối năm, danh mục của em mèo đã bức phá ngoại mục và lãi được 542$, trong khi 3 anh FM chỉ lãi có 176$, đội trẻ em bị lỗ 160$.
Trong khi 3FM cao thủ chứng khoán dùng nhiều kiểu phân tích, định giá để chọn cổ phiếu, em mèo Orlando chỉ nhắm mắt, vuốt râu click chuột đại vào 5 cổ phiếu bất kì. Kết quả cuộc thi lại 1 lần nữa gây tranh cãi là liệu các cao thủ chứng khoán chuyên nghiệp, được trang bị kiến thức & công cụ đầu tư đến tận răng có chiến thắng được thị trường không? Em mèo Orlando là minh chứng hùng hồn cho thuyết “ bước đi ngẫu nhiên”  của Malkiel – học thuyết  nói rằng sự vận động của giá cả trên thị trường chứng khoán sẽ không đi theo bất kì một khuôn mẫu hay một xu hướng nào đã từng có trước đây. Và do đó những biến động giá trong quá khứ sẽ không thể sử dụng được trong việc dự đoán những bước đi tiếp theo của chú bò này trong tương lai.
Quan điểm của trường phái Bước đi ngẫu nhiên xem thường đóng góp của các Active Fund Manager đối với việc lựa chọn cổ phiếu. Nhiều nhà đầu tư & FM tin vào bước đi ngẫu nhiên và chọn cách đầu tư Passive cho nó lành, mua 1 rổ cổ phiếu theo index cho đỡ tốn sức. Các đại ca tiêu biểu của trường phái này là Burton Malkiel với tuyệt học bước đi ngẫu nhiên, Paul Samuelson, Charles Ellis. Ellis với “ The loser’s Game (1975)” nghiên cứu TTCk từ 1960-1970 & kết luận rằng cá biệt có vài % đám Active FM cho lợi nhuận đột biến, còn lại tính trung bình thì đều thua thị trường chung. Như vậy việc gì phải đưa tiền cho cho họ với phí quản lí, phí giao dịch & thuế quá cao mà chẳng hơn gì tự mình mua. Tuy nhiên, Passive investment chỉ hợp với các thị trường có tính hiệu quả về thông tin cao. Còn ở các thị trường mới nổi, vốn hoá thấp, dễ lái tàu (như VN chẳng hạn), đầu tư theo index mà nhìn hàng hot của ông hàng xóm tăng 100% thì thắng 15% cũng như là thua.