Hiển thị các bài đăng có nhãn CFA. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CFA. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Thị trường có hiệu quả?

 Hầu hết các học thuyết tài chính hiện đại đều dựa trên giả định thị trường hiệu quả: thị trường đã phản ánh đầy đủ, chính xác & ngay lập tức tất cả các thông tin có thể có được vào giá chứng khoán. Tuy nhiên, Efficient market hypothesis (EMH) không được chấp nhận tuyệt đối. Từ ngày EHM được khai sinh, có rất nhiều nghiên cứu để ủng hộ và phản đối thuyết này.

Trong 1 bài viết về EMH trên Financial Time năm 2009, Thaler nhận xét rằng “ giá chứng khoán luôn đúng” và “ không có bữa ăn nào miễn phí”. Ngụ ý của Thaler rằng giá chứng khoán đã phản ánh mọi thông tin của thị trường, và rất có để các nhà đầu tư có thể đánh bại thị trường năm này qua năm khác. Ngoại trừ những nhà đầu tư đặc biệt siêu cấp như Buffett thì hầu hết đều thua thị trường nếu xét trong 1 thời gian dài.
Khái niệm bước đi ngẫu nhiên đã có từ đầu thế kỷ 20, nhưng đến năm 1970, Fama mới định nghĩa cụ thể & dễ hiểu về EMH. Ông đưa ra 3 khái niệm của thị trường hiệu quả: Dạng yếu, dạng khá mạnh & mạnh. EMH dạng yếu giả định rằng mọi thông tin quá khứ về giá & khối lượng đã phản ánh đầy đủ vào giá chứng khoán. Vì vậy nếu thị trường ở dạng hiệu quả yếu, phân tích kĩ thuật không thể kiếm lợi nhuận phi thường được. Dạng mạnh vừa giả định rằng mọi thông tin quá khứ và hiện tại đã phản ánh hết vào giá, vì vậy cả TA & FA đều không thể dùng để kiếm abnormal return được. Thị trường hiệu quả dạng mạnh giả định mọi thông tin quá khứ hiện tại, đã công bố hay chưa công bố, tin mật của đội lái…đều được phản ánh hết vào giá. Vì vậy ngay cả có tin nội dán trong công ty cũng không thể kiếm được lợi nhuận phi thường, vì chỉ vài giây là là mọi thông tin public lên VFpress cả.

Ý tưởng về EMH được ra đời ở đầu thế kỷ 20. Năm 1990, cầu thủ người Pháp tên Frank Ribery-à không phải, nhà toán học người Pháp tên Louis Bachelier nộp luận án Tiến sĩ với tựa đề “đầu cơ chân kinh” (The Theory of Speculation) và miêu tả rằng bước đi của thị trường là ngẫu nhiên. Ngay đoạn mở đầu, Ông viết: “ thông tin quá khứ, hiện tại, thậm chí cả tương lai đều phản ánh cả vào giá cổ phiếu, nhưng thường không thể hiện 1 mối liên hệ rõ ràng với sự biến động giá hàng ngày”. Sau đó,có  nhiều nghiên cứu thực nghiệm, thống kê để bảo vệ EHM (phần lớn các nghiên cứu thống kê thị trường chứng khoán nhằm vào dạng weak EHM). Rất nhiều thống kê cho rằng không thể dùng biến động giá quá khứ để dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai (kháng cự vững mấy mà có đội lái xịn là khoan thủng hết, gặp kháng cự, tin tưởng biểu đồ giá quá khư bán là mất hàng ráng chịu :D ). Năm 1965, Fama nghiên cứu và kết luận rằng biến động hằng ngày của giá cổ phiếu gần như chẳng liên quan gì đến nhau (zero positive correlation). Năm 1973, Malkiel dùng 1 thực nghiệm rất thuyết phục để chứng minh bước đi ngẫu nhiên của giá cổ phiếu & dìm hàng dân phân tích kĩ thuật (chartist). Ông giả định 1 cổ phiếu ABC giá 50$ & cho đám sinh viên gieo đồng xu. Nếu mặt xấp thì giá cổ phiếu ABC tăng 1$, mặt ngửa thì giảm 1$. Mỗi lần gieo, cơ hội giá cổ phiếu tăng giảm so với phiên trước là 50/50. Sau đó Ông thu thập data lại và vẽ chart theo đúng kết quả gieo đồng xu ngẫu nhiên cho 1 chuyên gia PTKT xem. Chartist này khuyên ông hãy mua cổ phiếu ABC ngay, cốc tay cầm rõ ràng, không mua nhanh tàu chạy mất. Sau khi Malkiel nói rằng Tao gieo xu vẽ chart chọc mày chơi thôi, chartist này rất tức giận.

Ngoài ra, nhiều nghiên cứu nhằm vào các Active manager để chứng minh rằng có cố mấy thì xác suất thắng thị trường cũng 50/50. Cowles (1933) phân tích hàng ngàn cổ phiếu được chọn bởi các chuyên gia từ năm 1928-1933 và cho thấy rằng khả năng chọn hàng chiến của các chuyên gia cũng hên xui. Năm 1967, Jensen cũng làm 1 phân tích định lượng hoành tráng, dùng danh mục của 115 mutual funds chạy hồi quy. Kết quả fund return sau khi trừ phí quản lí thì còn thấp hơn cả S&P 500. Thực nghiệm gần đay của VFpress gây được tiếng vang lớn đó là cuộc thi “ai kiếm tiền hơn học sinh lớp 2”, các cháu lớp 2 không biết cổ phiếu là gì vẫn đánh bại được thị trường (chẳng bù cho bố & các chú của cháu, học hành đánh đấm đủ thể loại vẫn lõm).
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nghiên cứu cho rằng thị trường không hiệu quả, ít nhất trong 1 số thời điểm nhất định nào đó. Tiêu biểu là nghiên cứu về “hiệu ứng tháng Giêng” của Kinney năm 1976: tháng Giêng thường lợi nhuận đầu tư cổ phiếu cao hơn các tháng khác. Hoặc “hiệu ứng ngày thứ Hai” của Gibbons năm 1981 cho thấy giá cổ phiếu thường giảm vào ngày thứ 2. (hôm qua thứ 2 VN-index cũng mất điểm).
(còn tiếp...)

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

Giá trị doanh nghiệp – Enterprise value & Equity value

Enterprise value & các chỉ số liên quan, ví dụ như EV/EBITDA là 1 chỉ số rất quen thuộc với dân Investment Bankers, Analysts & investors theo trường phái phân tích cơ bản. EV là số tiền phải bỏ ra để mua toàn bộ vốn cổ phần + nợ vay của doanh nghiệp. Thay vì dùng các chỉ số phổ thông như PE, phát biểu: “Công ty A có EV/EBITDA = 5, trong khi trung bình ngành là 7, quá rẻ” nghe có vẻ hoành tráng & trí tuệ hơn hẳn J (nhưng tiếc là phát biểu không đúng cho mọi trường hợp).

Về công thức tính, Enterprise Value = giá thị trường của Equity + Vay ngắn hạn + Vay dài hạn + Lợi ích cổ đông thiểu số + Giá trị thị trường cổ phiếu ưu đãi - Tiền và tương đương tiền. Nếu theo toán học thì càng tăng debt & giảm cash sẽ làm tăng giá trị doanh nghiệp lên. Nhưng như vậy có hợp logic không?

Hãy bỏ qua những thuật ngữ phứt tạp về minority interest, preferred stock, dùng công thức đơn giản EV= Equity value (QV) + Net Debt (ND).  Giả sử bạn định mua 1 căn nhà giá 5 tỉ, trong đó bỏ ra 1 tỉ vốn & vay thêm 4 tỉ. Như vậy EV của căn nhà là 5 tỉ, còn QV là 1 tỉ. Equity value chỉ thể hiện giá trị của số vốn bạn bỏ vào kinh doanh.  Lãi vay đang rẻ, bạn tranh thủ vay thêm 1 tỉ mông má lại căn nhà để bán được giá hơn. Ngay sau khi vay, debt tăng lên 1 tỉ & cash cũng tăng lên 1 tỉ, còn giá trị căn nhà có tăng lên không? Hiển nhiên là không, vì tiền vay vẫn nằm trong tài khoản ngân hàng, chưa ảnh hưởng gì đến giá trị căn nhà. Bây giờ bắt đầu rút tiền ra sơn sửa lại nhà, debt vẫn là 5 tỉ, trong khi đó cash đã ít đi, vì vậy net debt đã tăng lên và giá trị căn nhà bạn đã thay đổi. Câu hỏi ở đây là EV của căn nhà thay đổi như thế nào?

Trường hợp thứ nhất, bạn sửa nhà hết 1 tỉ và bán căn nhà được đúng 6 tỉ. Như vây EV căn nhà đã tăng 1 tỉ so với ban đầu, nhưng QV của bạn chẳng tăng đồng nào. Bán nhà  6 tỉ, trả nợ 5 tỉ, bỏ túi đúng bằng 1 tỉ vốn ban đầu. Tương tự, nếu bạn sửa 1 tỉ & bán được 6.5 tỉ, nghĩa là khoản vay 1 tỉ để sửa nhà đã giúp EV tăng 1.5 tỉ & QV tăng được 500 tr. Tệ nhất là sửa nhà hết 1 tỉ mà chỉ bán được 5.5 tỉ, vậy là lỗ mất 500tr.


Enterprise value & equity value được sử dụng rất thường xuyên khi định giá doanh nghiệp. Khi bạn muốn chiết khấu dòng tiền để định giá doanh nghiệp, có thể định giá enterprise value bằng cách tính Free CF to Firm & chiết khấu bằng WACC, hoặc định giá trực tiếp equity bằng cách tính Free CF to Equity & chiết khấu bằng cost of equity. Hiểu rõ bản chất của EV & equity sẽ giúp bạn dùng đúng free cash flow & discount rate trong model của mình. Ngoài ra, khi so sánh các doanh nghiệp bằng các chỉ số EV/EBITA, PE… hiểu đúng bản chất của enterprise value & equity value sẽ giúp bài valuation logic & chặt chẽ hơn. 

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

5 câu hỏi phổ biến về kết quả CFA sẽ có ngày mai

Kết quả kì thi CFA level 1 & 2 sẽ có vào ngày mai, 22/7. Vậy là sau nhiều tháng học hành vất vả, cày sâu cuốc bẩm & gần 2 tháng hồi hộp chờ đợi, bạn sẽ biết nổ lực của mình có được đền đáp như mong muốn không. Cadidate level 2 đã trải qua cảm giác hồi hộp & xúc động khi nhận kết quả, nhưng có lẽ rất nhiều level 1 candidate đang rất nóng lòng & muốn hỏi nhiều điều về kết quả ngày mai. Dưới đây là 5 câu hỏi phổ biến về kết quả thi CFA:
1/ Kết quả thi được thông báo như thế nào?

Trước đây, kết quả CFA được post trên trang web của CFA Institute, & bạn sẽ truy cập vào trang web để dò kết quả. Nhưng quá nhiều người cùng vào trang web 1 lúc khiến trang web thường không truy cập được vào ngày nhận kết quả. Vì vậy CFA Institute đã chuyển sang cách gửi mail cho từng candidate thông qua email bạn nhập lúc đăng kí thi.
Formats kết quả thường khác nhau đôi chút qua mỗi năm. Format năm 2012 như sau: nếu may mắn bạn sẽ nhận được thông báo  “Congratulations! We are very pleased to inform you that you passed the June 2012 Level 1/II CFA exam. 42% of candidates passed the June 2012 Level 1/II CFA exam. You are one step closer to achieving your goal of earning the globally respected CFA charter”. Nếu không may, I'm sorry to inform you…
2/ Khi nào email đến?

9h sáng mai (9AM ET) là kết quả sẽ được gửi mail đi. Nhưng do chênh lệch múi giờ nên nếu bạn ở Anh thì sẽ nhận vào 2h chiều, Ấn Độ là 6h30PM, Trung Quốc, Sing, Việt Nam khoảng 9h PM. Cảm giác đợi mail rất thú vị, refresh mail liên tục. 1 số bạn bè có điểm trước và pass sẽ gọi hỏi thăm bạn có kết quả chưa? Lúc này bạn sẽ rất nóng lòng và nghĩ: “WTF, sao mình chưa có kết quả, mấy đứa đậu có trước hết rồi, vậy mình teo rồi L “. Thực có ra nhanh hay chậm hơn 1,2h là bình thường, không phải do điểm thấp thì có mail sau nhé bạn.

3/ Bảng kết quả thi tròn méo thế nào?

Trong email sẽ có 1 bảng thống kê điểm số của 10 môn học  với 3 mức: 0-50%, 50-70%, >70%. Nếu bạn được 1 hàng dọc (10 môn trên 70%) thì quá tuyệt vời, thực ra chỉ cần 4 môn lớn trên 70% và ko quá 2 môn dưới 50% là đủ đậu rồi.

4/ Nếu tôi đậu/rớt, tôi sẽ làm gì tiếp theo?

Nếu bạn đậu, xin chúc mừng! bạn hãy đi liên hoan với bạn bè, tận hưởng niềm vui chiến thắng. Sau đó chuẩn bị tiền để đăng kí level tiếp theo available ngay sau ngày báo kết quả.
Nếu bạn không pass, đừng từ bỏ! Hơn 70% candidates đã từng thi lại kì thi này. Thất bại là bài học để bạn thay đổi phương pháp học tập, nổ lực hơn nữa để đạt được ước mơ.

5/ Tôi làm rất tốt mà vẫn rớt, tôi phải phúc khảo!

Nếu bạn rớt & muốn phúc khảo, bạn có quyền phúc khảo. Nhưng nó sẽ tốn của bạn 100$ & theo tôi được biết thì chưa có ai phúc khảo thành công! L. Vì vậy lời khuyên là trừ khi bạn tự tin là làm rất rất tốt, nhưng kết quả lại rất rất tệ hãy phúc khảo.  (đôi khi bạn suy nghĩ đúng hết nhưng quá cao hứng nên tô nhầm vào ô trả lời nên thành sai hết)

Nếu bạn có thêm câu hỏi khác, hãy comment & sẽ được reply ngay lập tức J

Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

Tăng khả năng đậu CFA nhờ phân tích kết quả quá khứ


Triết lý gia nổi tiếng người Mỹ gốc Tây Ban Nha George Santayana nói một câu rất nổi tiếng: “Người không nhớ quá khứ chắc chắn sẽ tái phạm lỗi lầm” ("Those who cannot remember the past are condemned to repeat it"). Vì vậy, phân tích kết quả các kì thi CFA trước đây là 1 cách hay để tăng khả năng PASS trong kì thi sắp tới. Tại sao bạn không sử dụng thống kê sẳn có này để biết được điểm khác biệt giữa những người đậu & rớt là ở những môn học nào!

Level 1

Dựa vào kết quả kì thi CFA level 1 tháng 12/2012 (và cả tháng 6/2012), vấn đề lớn nhất của các Candidate vẫn là các môn Quantitative Methods, Derivatives, Economics, Fixed Income. Trừ Derivatives ra, các môn còn lại trong list trên đều có tỉ trọng khá cao. Vì vậy nếu bạn thấy không chắc ở các môn trên thì hãy dành thêm thời gian ôn tập lại. Quantitative Methods, Derivatives, Economics, Fixed Income là những kiến thức rất quan trọng & thường xuyên xuất hiện ở các level sau. Có thể vì lí do này mà CFA Institute test các môn này khó hơn nhằm tạo nền tảng cho các ứng viên học tiếp level 2 & 3. Khoảng cách giữa PASS & Band 10 đối với level 1 là 3-4%, tương đương với 8-11 câu đúng.

Level 2

Độ khó ở Level 2 có vẻ trải đều hơn level 1. FRA, Equity, Fixed Income là những môn khó & cũng có tỉ trọng cao nhất, quyết định đậu rớt của Level 2. Bên cạnh đó,  Derivatives, Economics and Quantitative Methods vẫn là các môn gây khó khăn nhất cho ứng viên. Đặc biệt chú ý đến môn Derivatives, đối với level 1 tỉ trọng môn này thấp nên không học chắc có thể đánh lụi không sao. Nhưng lên level 2 thì độ khó & tỉ trọng tăng lên nên cực kì nguy  hiểm. Tỉ lệ thí sinh dưới 50% môn Derivatives là cao nhất!

Level 3

Đối với level 3 thì khó nhằn nhất là phần thi viết essay buổi sáng, khi mà đến 96% thí sinh làm bài essay tồi hơn rất nhiều so với làm item set. Hơn nữa, những chiến binh sau khi lọt qua được 2 vòng thi khó khăn trước đó đã thể hiện được sự xuất sắc, sung mãn & quyết tâm cao độ để 1 đập ăn quan nên cạnh tranh rất khốc liệt. Ở Level 3 khoảng cách giữa đậu & rớt chỉ có 1.4%, rớt band 10 thì buồn hơn con chuồn chuồn.
Nhìn vào biểu đồ thì Derivatives & Fixed Income lại 1 lần nữa là những môn tỉ lệ rớt cao nhất. Song song với nó, Portfolio managerment (Individual & Institute) là 2 môn học mới & có tỉ lệ rớt cao ngang ngửa D & F. Vì vậy, ngoài việc ngoài việc ôn bài tập Fixed & Derivatives thật chắc, việc rèn luyện cách viết IPS cho Institutional & Individual investors  sẽ quyết định đậu rớt của level 3. 

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Học MBA hay CFA tốt hơn?


Sau khi ra trường, nên học tiếp MBA hay học CFA là 1 đề tài được tranh luận khá nảy lửa trong giới tài chính ở Việt Nam & cả nước ngoài. Học cái gì tốt hơn còn tuỳ thuộc vào background & mục tiêu nghề nghiệp của mỗi người. MBA cũng có 1 số chương trình tập trung hoàn toàn vào finance, nhưng nhìn chung MBA chú trọng hơn đến kiến thức chung về kinh doanh, quản trị. Trong khi đó CFA tập trung đào tạo kiến thức chuyên về phân tích tài chính, quản trị danh mục đầu tư. Vì vậy ứng viên CFA chủ yếu làm ở các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán & tư vấn đầu tư. Điểm khác biệt cơ bản giữa ôn thi CFA và theo đuổi một khóa học MBA chính là CFA cho phép thí sinh không cần đến lớp, vừa tự học vừa làm, còn với một khóa MBA ít nhất bạn phải dành một nửa buổi để đến lớp (với hình thức học bán thời gian) hoặc cả ngày (với hình thức học chính quy).
Nếu bạn đang phân vân nên học CFA hay MBA, hãy cân nhắc những yếu tố sau:
1/ Chi phí
Để thi lấy chứng chỉ CFA, thí sinh cần vượt qua ít nhất 3 vòng thi, và khoảng $2500 tiền đăng ký và tiền lệ phí cho 3 vòng nếu đăng ký sớm (Hiệp hội CFA quốc tế áp dụng quy định giảm chi phí cho những đăng ký sớm, và giá sẽ cao dần khi càng sát thời hạn thi). Tài liệu ôn thi được đã bao gồm trong chi phí đăng ký và thí sinh bắt buộc phải trả. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngoài tài liệu ôn thi, phần lớn thí sinh có nhu cầu tham gia các khóa học luyện thi, tài liệu tham khảo, và các phần mềm bổ trợ nữa. Như vậy thí sinh sẽ mất khoàng $4000-$5000 để vượt qua 3 vòng. Con số nầy tuy không nhỏ nhưng “mềm” hơn rất nhiều so với một khóa học MBA tại nước ngoài có giá dao động từ $30,000 đến trên $100,000 phụ thuộc vào trường cũng như chi phí sinh hoạt tại nơi bạn theo học.

2/ Thời gian
Để hoàn thành ba vòng thi CFA, thí sinh cần ít nhất từ 2 năm, do quy định của Hiệp hội CFA quốc tế về thời gian giữa các vòng thi, thí sinh có thể thi level 1 vào tháng 12, level 2 vào tháng 6 năm sau và level 3 một năm sau đó. Thời gian này sẽ dài hơn nếu thí sinh thi level 1 vào tháng 6, hoặc phải thi lại (theo thống kê từ Hiệp hội, tỉ lệ đỗ level 1 CFA trung bình 46%, 41% với level 2 và 49% với level 3). Ngoài ra thí sinh còn cần ít nhất 4 năm kinh nghiệm để và ký các cam kết về đạo đức nghề nghiệp để được chính thức nhận chứng chỉ. Trong khi đó trung bình khóa học MBA kéo dài từ 1 năm rưỡi đến 2 năm.

3/ Lương thưởng
Có lẽ điều mọi người quan tâm nhất là học cái nào thì đi làm sẽ được trả lương thưởng cao hơn. Để có thông tin đó, Business Insider đã khảo sát & thống  kê kết quả như sau:

Như bạn thấy, CFA charterholders thường kiếm được nhiều hơn người chỉ có MBA 1 khoảng tiền là 27,000$ mỗi năm, và nhiều hơn 13,000$ so với những người chỉ có MBA chuyên về tài chính.(có luôn cả 2 bằng thì bá đạo luôn, khỏi so sánh làm chi :D )

Tiến sĩ Giang Lê, cao thủ nhất đẳng về kinh tế học & tài chính ở Việt Nam cũng từng viết 1 note ngắn về CFA vs MBA. Tiến sĩ nhận xét: “Thực ra học gì ra làm cũng được, miễn là bạn có đầu óc và chịu khó. Nhưng có CFA sẽ dễ xin việc trong finance industry (investment banking) hơn MSF. Finance MBA ở giữa nhưng cũng tùy thuộc vào B-school bạn theo học. Nhưng MBA có advantage là có nhiều lựa chọn nghề nghiệp hơn CFA và MSF. Nếu có BA/BS ở nước ngoài thì chỉ cần CFA, có thể học song song với BA/BS, thì 22-23 tuổi đã có thể bắt đầu đi làm trong finance industry rồi. Nếu giỏi 27-28 tuổi có thể lên manager và lương bổng chắc chắn cao hơn những anh PhD/MS/MA + everything.”

Ý kiến cá nhân e: nếu bạn có học bổng du học MBA thì không phải suy nghĩ. Còn nếu bỏ tiền túi đi học (không phải ai cũng có điều kiện đi), khoảng thời gian du học sẽ rất tuyệt vời, bạn được học tập trong môi trường tốt, làm thêm đôi chút kiếm tiền đi du lịch, tận hưởng tuổi trẻ, tiếng Anh như gió. Nhưng khi đeo lon MBA về nước xin việc thì đúng là đời không như là mơ. Với TT tài chính cạnh tranh như hiện nay thì kinh nghiệm làm việc quan trọng hơn bằng cấp. Bạn phải chấp nhận thực tế là đeo lon MBA với kinh nghiệm bằng zero nếu làm tài chính đầu tư thì cũng phải bắt đầu công việc ở vị trí binh bét như 1 bạn mới tốt nghiệp đại học, mức lương khởi điểm cũng không được như kì vọng của 1 MBA (e tính mặc bằng chung, không tính các siêu sao nằm trong top của trường, tất nhiên sẽ được trải thảm đỏ). Trong khi đó học CFA có điểm lợi là vừa học vừa làm, nếu hên hên thi cử tốt đẹp thì chịu đau khổ 3 kì thi là xong chương trình, lại có kinh nghiệm làm việc & 1 ít vốn liếng tích luỹ sau 3 năm vừa làm vừa học. 1 điểm lớn mà CFA thua MBA đó là 2 năm kinh nghiệm sinh sống & học tập ở nước ngoài là vô cùng giá trị, nó thay đổi tư duy con người rất nhiều. Các bạn học MBA có 1 điểm chung là rất tự lập, thích nghi tốt & làm việc rất hiệu quả.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Goldman Sachs giải thích công thức tính ROE mà mọi CFA Test Taker cần phải biết


ROE (Return on Equity) là 1 concept cơ bản & thường được test trong các kì thi CFA level 1 & 2
1 cách tính đơn giản, ROE bẳng Net Income chia cho giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu (equity) của công ty. Tuy nhiên, nếu tính đơn thuần như vậy thì ROE không nói lên được nhiều điều về hoạt động & cấu trúc vốn của công ty.
Vì vậy chuyên viên phân tích cần tách chỉ số ROE thành nhiều yếu tố. 1 trong số đó là mô hình Dupont 5 yếu tố.
Goldman Sachs vừa giải thích công thức ROE 5 yếu tố trong 1 report gửi cho khách hàng của mình như sau:



Mô hình Dupont tách ROE thành 5 yếu tố sau:
1/ Operating margin: đây là tỉ số EBIT/Sale. Tỉ số này càng cao, khả năng sinh lợi của công ty càng cao.
2/ Asset turnover: tỉ số này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của công ty, cho biết 1 đồng đầu tư vào tài sản tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
3/ Chi phí lãi vay: tỉ số này so sánh lãi vay của công ty so với tổng tài sản. Tỉ số này không được sử dụng thường xuyên trong việc phân tích đòn cân nợ của công ty.
4/ Asset/Equity: tỉ số này đánh giá đòn cân nợ (leverage) của công ty. Tỉ số này cao nghĩa là công ty đã dùng nhiều nợ để tài trợ cho việc mua sắm tài sản.
5/ Thuế: yếu tố này để cho biết mức thuế suất hiệu dụng của công ty.
Như bạn thấy, tách ROE thành 5 yếu tố thế này sẽ cho người đọc biết nhiều thông tin hơn về hoạt động của công ty, không chỉ  dừng lại ở lợi nhuận và vốn chủ sở hữu.
Mô hình Dupont thường được test trong kì thi CFA, vì vậy các nhà đầu tư có ý định thi CFA nên biết công thức này.

Thứ Hai, 29 tháng 4, 2013

[CFA exam] 30 ngày ăn ngủ với sách CFA


Hiện nay bạn đang ở đâu trong biển kiến thức của kì thi CFA sắp tới? Đã đọc hết 6 quyển sách giầy, làm hết bài tập từng chương? Hay đã làm qua 1 vài practice exam?
Còn đúng 1 tháng nữa là tới kì thi, bạn cần lên kế hoạch học tập thật chặt chẽ & bám sát kế hoạch. Đây là lúc việc học tập có hiệu quả cao nhất vì khi nước đến chân thì chạy mới nhanh. Giai đoạn nước rút sẽ quyết định thành bại. Khoảng cách giữa PASS & band 10, band 9 là rất gần, vì vậy hãy cố gắng hết sức trong 30 ngày còn lại. Dưới đây là chiến lược cho 1 tháng ăn, ngủ, sống, & hít thở với CFA.

1/ Lên kế hoạch sử dụng tối đa nguồn lực bạn có
Nếu có thể, bạn hãy xin nghỉ làm 1-2 tuần, tạm bỏ qua những con sóng của tháng 5 (mà đã được dự báo là sóng dữ nên cũng chẳng béo bổ gì) để tập trung toàn bộ thời gian cho CFA. Bản thân tôi cũng chưa đi chơi 1 ngày nào trong các kì nghỉ lễ 30/4 trong 3 năm nay.
Chuẩn bị sẵn các đề thi cần phải ôn: bạn có 2 quyển Practice exam của Kaplan & khoảng 3 đề mock exam của các năm trước. Nếu còn thời gian, làm hết câu hỏi của Question bank luôn thì quá tuyệt.

2/ Practice makes perfect
Bất cứ công việc gì, dù là thi CFA, làm việc hay chơi thể thao, thực hành càng nhiều thì bạn sẽ càng quen tay & đạt kết quả tốt lên. Hãy tìm 1 nơi nào yên tĩnh (thư viện, phòng tự học, café sách) học tập trung 3h buổi sáng, 3h buổi chiều như đi thi thật để luyện khả năng tập trung trong kì thi. Giai đoạn này thời gian không còn nữa nên hãy sử dụng thời gian 1 cách tiết kiệm & thông minh.

3/ Review
Bạn cảm thấy đề thi thử thế nào? Sau khi làm đề hãy note lại những điểm kiến thức mình quên để ôn lại. Sau đó dò kết quả xem mình đúng được bao nhiêu %. Xem lại thật kĩ mình sai ở đâu & cố gắng hàn lại những lỗ thủng. Đề Practice exam thường có ghi chú rõ phần kiến thức được test là ở LOS nào. Nếu bạn sai ở LOS nào thì hãy đọc lại lí thuyết LOS đó 1 lần nữa.
Bạn có khoảng 8 đề thi, vì vậy hãy chia ra 2 ngày làm 1 đề (1 ngày làm full đề thi, 1 ngày sửa đề & ôn lại những kiến thức bị hổng). 1 số môn cần phải học thuộc bài như môn Ethics hãy sử dụng tuyệt chiêu ghi nhớ bằng liên tưởng & các hình ảnh vui như đã trình bày ở bài viết trước.

4/ Kiên định
Mỗi tuần đều phải làm đề, sửa đề từ sáng đến khuya rất stress & đòi hỏi bạn phải rất kiên định  nghị lực. Cố gắng lặp lại vòng quay như vậy trong vòng 1 tháng, bạn sẽ thấy kiến thức mình tăng lên hẳn so với trước khi ôn luyện. Những lúc quá stress hãy thư giãn đôi chút, chơi thể thao cho phấn chấn hơn, nhưng nhất định phải tiếp tục guồng quay vào ngày hôm sau, không được phép dễ dãi với bản thân trong giai đoạn nước sôi lửa bỏng này.  Trước khi thi 2 tuần nếu bạn làm Practice exam trên 60% thì gần như chắc chắn bạn sẽ Pass, vì đề thi thực tế dễ hơn Practice exam khá nhiều.

5/ Chăm sóc bản thân
Sức khoẻ là yếu tố quan trọng nhất ở giai đoạn này & xứng đáng là yếu tố “khoá đuôi”. Bạn không thể tập trung & kiên định được nếu bị cảm cúm, mất ngủ, suy nhược cơ thể. Vì vậy, hãy ăn uống thật chu đáo, bổ sung thêm trái cây, sữa hoặc thuốc bổ nếu thấy cần thiết. Cố gắng ngủ đủ giấc & ngủ chất lượng, nghe nhạc & tập thể dục để cơ thể luôn trong trạng thái sung sức.Tiếc 1h ngủ trưa hoặc cày thâu đêm suốt sáng được 1,2 bữa, nhưng lại bị bệnh thì còn tốn thời gian hơn là học tập hiệu quả & nghỉ ngơi đầy đủ.  Hãy lắng nghe & tôn trọng cơ thể bạn! 

Thứ Hai, 22 tháng 4, 2013

Các sai sót & thiên lệch thường gặp khi xử lí dữ liệu tài chính


Mới đây, giới kinh tế thế giới một phen nổi sóng khi nghiên cứu nổi tiếng về quan hệ nợ công/GDP với tăng trưởng kinh tế của Carmen Reinhart và Kenneth Rogoff bị phát hiện có sai sót cực lớn. 1 trong những sai sót đó là một lỗi đặt nhầm công thức excel đã khiến 5 nước có tên đầu tiên trong bảng chữ cái bị loại khỏi phép tính giá trị trung bình trong giai đoạn 1946-2009. Đây là 1 trong những sai sót cơ bản khi làm nghiên cứu kinh tế có sử dụng dữ liệu quá khứ. Sai sót khi thu thập, xử lí dữ liệu (Transcription errors) này là nặng nhất & vô phương cứu chữa. Nói 1 cách bóng bẩy là “ Garbage in, gargage out”. Ngoài lỗi transcription errors như trên, sai sót về dữ liệu còn có thể gặp phải ở những dạng sau:
Survivorship bias: (Thiên lệch kẻ sống sót) loại bias này xảy ra khi chuỗi dữ liệu chỉ phản ánh những cá thể còn tồn tại trong 1 giai đoạn nghiên cứu. Lỗi này thường gặp nhất khi thống kê performance quá khứ của hedge funds. Khi 1 HF thua lỗ sập tiệm, nó bị loại ra khỏi cơ sở dữ liệu. Vì vậy database chỉ toàn chứa những thằng còn sống sót, chưa bị đào thải & đưa ra 1 bức tranh tốt đẹp hơn thực tế về lợi nhuận của các HF.
Smoothed data: 1 số tài sản thanh khoản kém, không có dữ liệu giao dịch hàng ngày nên khi sử dụng, người ta phải làm mượt dữ liệu. Các index của bất động sản như NCFEIF thường cung cấp các dữ liệu đã làm mượt, kết quả là nó đã understatement biến động thực tế của thị trường.
Ngoài các lỗi về thu thập dữ liệu, các analysts còn hay gặp các lỗi về phương pháp phân tích dữ liệu như sau:
Data-mining bias: bạn tin rằng chỉ số Vnindex sẽ có mối tương quan nào đó với số người vào đọc bài ở Vfpress hàng ngày. Vì vậy bạn cố gắng đào bới dữ liệu, tìm cho bằng được mô hình kinh tế lượng nào đó để giải thích tương quan giữa chỉ số Vni & page view Vfpress.vn. Nhưng nếu chỉ có kết quả thống kê mà không có lí luận kinh tế logic nào để support cho mô hình thì bạn đã bị lỗi data-mining bias.
Time-period bias: Các bác hãy tin tưởng giao tiền cho e quản lí hộ, tính từ đầu năm 2009 đến nay suất sinh lời của e là 70%. ( Nhưng e không tiết lộ rằng e bắt đầu mua cổ phiếu từ năm 2007, tính từ đó đến nay suất sinh lời vẫn còn âm nặng). Như vậy suất sinh lời e đi quảng cáo quá nhạy cảm với thời điểm chọn làm mốc tính, vì vậy không phản ánh đúng kĩ năng trading của e. (giao tiền e quản lí đảm bảo chỉ có hoà vốn đến lỗ, welcome )Lỗi này gọi là time-period bias. 

Thứ Tư, 17 tháng 4, 2013

[CFA] Đã đến lúc làm practice exam!


Chỉ còn hơn 6 tuần nữa là đã đến kì thi CFA cho cả 3 level 1,2,3. Các sĩ tử CFA lại phải làm quen với khoảng thời gian nightmare nhất trong năm, thường xuyên thiếu ngủ & chích cafe liên tục để cầm cự. Theo nguyên tắc 80/20, 20% thời gian còn lại này sẽ quyết định 80% thành bại của kì thi. Theo kinh nghiệm xương máu của mình thì làm practice exam (Practice exam của Kaplan hoặc Mock exam của CFA Institute) càng sớm thì khả năng đậu càng cao. Nhiều bạn lo sợ mình chưa học được nhiều, làm Practice test chỉ phí thời gian & nản chí thêm. Nhưng thực ra đến thời điểm này ít nhất các candidate đã đọc qua 1 vòng 6 cuốn sách. Làm Practice test sẽ giúp bạn biết được mình đang bị lủng môn nào, cần vá gấp môn nào & môn nào kiến thức đã ổn để có chiến lược sử dụng khoảng thời gian ít ỏi còn lại một cách hợp lí nhất.
Dưới đây là lí do vì sao kết quả Practice test thấp cũng không đáng lo:
1/ Hầu như mọi người rớt khi làm Practice test lần đầu
Với lượng kiến thức quá nhiều & khá khó, lần đầu làm test tất cả các môn 1 lúc bị rớt không có gì là lạ. Đừng quá sợ hãi với kết quả practice test, hãy dành thời gian nhiều hơn cho các môn bạn đã rớt, nhưng cũng đừng bỏ rơi các môn thế mạnh. Học CFA chỉ cần bỏ 1 thời gian không lướt lại là môn thế mạnh cũng bị quên sạch.
2/ Rất nhiều yếu tố dẫn đến kết quả thấp
Ngoài việc học bài chưa kĩ, còn rất nhiều điều bạn phải rèn để bước vào kì thi chính thức. Những nguyên nhân có thể khiến bạn rớt kì thi CFA đó là:
Quản lí thời gian: người chưa có kinh nghiệm thi CFA thường cắm đầu giải hết đề từ đầu đến cuối. Đặt biệt thí sinh Việt Nam rất thông minh nên ít khi chịu bó tay trước 1 câu khó. Nhưng nếu bạn không quản lí thời gian tốt, dành quá nhiều thời gian cho 1 số câu khó thì sẽ không đủ giờ để làm các bài dễ phía sau. Đề thi CFA rất hay lừa thí sinh bằng cách cho câu thật khó lên đầu, các câu dễ phía sau. Ngoài ra, kì thi kéo dài đến 3h, nếu bạn không làm practice test ngày để quen với áp lực kì thi, vô phòng thi thật sẽ không đủ minh mẫn & sức khoẻ để làm tốt trong 3h đó.
Đọc & hiểu câu hỏi: Các câu hỏi trong đề thi thường hay gài bẫy để khiến bạn chọn đáp án sai. 1 số sai làm phổ biến của candidate đó là đề hỏi “least likely” lại chọn đáp án “most likely”, tình huống rất dễ, đề hỏi chọn đáp án sai, thí sinh trúng tủ nên chủ quan lại khoanh vào đáp án đúng…
Tô vào answer sheet sai: nhiều bạn trả lời nháp đúng nhưng khi tô vào answer sheet, vì vội vàng, không đủ thời gian kiểm tra lại nên tô bị nhầm thành kết quả sai. Lỗi này tuy sơ đẳng nhưng do kì thi quá căng thẳng nên nhiều bạn vẫn gặp phải.
3/ Thi thử rớt không có gì tồi tệ, điều tồi tệ là không rút được kinh nghiệm gì
Kết quả thi thử không đảm bảo kết quả thi thật, vì vậy nếu bạn được điểm cao cũng không nên quá vui mừng, & bị rớt cũng không phải là 1 điều tồi tệ. Hãy xem kĩ càng các đề thi thử đã làm, phân loại xem mình thường mắc lỗi sai gì (lỗi kiến thức hay lỗi ko đọc kĩ đề). Tổng hợp các dạng câu hỏi của từng môn, tập trung vào các môn thấp điểm & các môn có tỉ trọng cao. Lưu ý là đối với những câu hỏi dạng tư duy, suy luận, bạn đã làm sai 1 lần thường rất dễ sai 1 lần nữa nếu gặp lại câu đó, vì tư duy đã bị đóng đinh theo suy luận sai. Vì vậy cần đảm bảo là mình hiểu hết các câu làm sai.
4/ Đi nhanh & không sợ vấp ngã
Move fast and break things  là câu nói nổi tiếng của Mark Zuckerberg trong thư gửi cho cổ đông Facebook. Nếu bạn không va vấp gì, có thể là do bạn đi quá chậm. Trong việc chuẩn bị thi CFA, càng đi nhanh vào các bài practice test, bạn càng có nhiều thời gian để bạn nhận ra điểm yếu, làm quen với format đề thi & có sự chuẩn bị tốt nhất cho kì thi. Cho dù có vấp ngã khi thi thử cũng không sao. Vì vậy, đừng để quyển Practice exam sạch sẽ thơm tho thêm nữa, hãy lấy ra cày dần, move fast & thực hiện các bước ở trên để khắc phục điểm yếu của mình sau khi làm xong đề thi thử. 

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

JPMorgan đã giúp Enron giấu nợ như thế nào?


Công ty Enron được thành lập vào năm 1985, với doanh thu đến 101 tỷ USD trong năm 2000. Họ từng là tập đoàn năng lượng hùng mạnh nhất Hoa Kỳ, hoạt động ở trên 40 nước. Tuy nhiên, sau khi bị phát hiện che dấu thua lỗ nợ nần, Cổ phiếu Enron từ đỉnh cao 90USD vào giữa năm 2000 đã tuột dốc không phanh xuống chỉ còn chưa tới USD vào cuối tháng 11-2001. Với tài sản lên tới 63,4 tỷ USD, Enron là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ tính đến thời điểm đó. Mọi người đều biết công ty kiểm toán thuộc hạng big5 lúc bấy giờ là Arthur Andersen(AA) đã ăn tiền để giúp Enron đánh bóng BCTC của mình, khiến cho nhà đầu tư mất hàng tỷ USD và khoảng 20.000 nhân viên Enron bị mất việc làm. Nhưng có lẽ ít ai biết Enron đã giấu nợ như thế nào và các ngân hàng lớn như JPMorrgan & Citi bank đóng vai trò gì trong vụ gian lận kinh điển này.
Với 1 vụ vỡ nợ quy môn lớn đến 63.4 tỉ USD, SEC biết rằng 1 mình Enron & AA không đủ sức để che mờ khoảng nợ lớn đến như vậy, nhất định phải có sự tiếp tay của 1 gã khổng lồ nào đó. Tháng 7/2003, SEC cáo buộc JPMorgan Chase & CitiGroup giúp Enron giấu nợ bằng các khoản cho vay nguỵ trang, biến nợ thành lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Sau vụ này JP bị phạt 135 triệu USD, Citi bị phạt 120 triệu USD.  Theo cáo buộc này, JPMorgan Chase và Citigroup đã cung cấp cho Enron tổng cộng 8,3 tỷ USD để thực hiện 1 nghiệp vụ buôn bán khí ga phức tạp. Nội dung của giao dịch này như sau: Enron tham gia 1 hợp đồng Swap trả trước (Prepaid forward sales contracts) mới 1 doanh nghiệp tên là Mahonia. Enron nhận tổng 1 cục tiền & đồng ý giao khí gas trong tương lai cho Mahonia. Mahonia lại làm 1 hợp đồng tương tự, nhận 1 cục tổng tiền từ JP & đồng ý giao gas trong tương lai cho JP.  JP lại là cổ đông lớn sở hữu Mahonia, vì vậy rủi ro của công ty con Mahonia cũng là rủi ro của JP. JP hedge rủi ro này với Enron. Sau khi cấn trừ các nghiệp vụ này, Enron giao hàng cho Maho, Maho bán lại cho JP, JP lại bán lại hàng cho Enron, cuối cùng coi như Enron không phải giao hàng mà lại nhận được tổng 1 cục tiền doanh thu bán hàng từ Maho, trong khi đó chỉ phải trả tiền từng kì trong tương lai cho JP. Nói cách khác, nghiệp vụ này thực chất là JP cho Enron vay, Enron sẽ trả dần từng kì. Tuy nhiên nhờ thủ thuật trên, Enron không những không phải ghi nhận 1 khoản nợ từ JP mà còn được ghi nhận doanh thu bán hàng. Toàn bộ giao dịch phức tạp này được thể hiện ở hình dưới đây.

Trong quá trình kiểm toán, AA đã ngửi được có mùi gian lận từ nghiệp vụ này, nhưng với khoản lót tay kha khá từ Enron, họ đã lờ đi & không cảnh báo gì về rủi ro của nghiệp vụ này cho người đọc BCTC. Sau sự kiện này thì vụ Enron được đưa vào rất nhiều sách giáo khoa về kiểm toán, các nghiệp vụ cho vay của ngân hàng, bài học về quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro…bla bla.  

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

Con đường trở thành CFA Charters Holder chông gai như thế nào?



Infographic này tóm tắt các bước phải làm để được đeo lon CFA Charter
Chặng đường đau khổ nhất là bạn phải vượt qua 3 kì thi, mỗi kì thi là 6h/ngày với các thử thách khác nhau.

+ Level 1: được tổ chức thi vào tháng 6 & tháng 12 hàng năm. Đề thi mỗi buổi là 120 câu trắc nghiệm, với 10 môn học bao quát hết những kiến thức cơ bản về tài chính & đầu tư. Nếu bạn đã học chuyên ngành liên quan đến kinh tế ở trường đại học thì kiến thức ở Level  1 cũng khá quen thuộc. Tuy nhiên, với lượng kiến thức nhiều và dàn trải nhiều môn, để trả lời hết 120 câu hỏi trong vòng 3h cũng không phải là dễ.

+ Level 2: chỉ được tổ chức vào tháng 6 hàng năm. Level 2 được xem là level khó nhất. Tuy số lượng câu hỏi chỉ bằng ½ level 1, nhưng với cách hỏi theo item sets, mỗi set là 1 đề bài dài & 6 câu hỏi trắc nghiệm. Nếu bạn không học kĩ, quên đúng phần kiến thức bị hỏi thì rất dễ làm sai hết nguyên 1 set & nếu vậy thì khả năng rớt rất cao. Level 2 có 10 môn học như level 1 nhưng rất nặng về tính toán & ghi nhớ công thức. Độ khó về kiến thức & rủi ro rớt của level 2 có thể gấp 3 lần level 1. Vì vậy chiến lược học để ghi nhớ & chiến lược thi cử rất quan trọng để đậu level 2.

+ Level 3: level này có thêm hình thức thi essay vào buổi sáng & 10 item sets trắc nghiệm ở buổi chiều. Đặc biệt với thí sinh Việt Nam thường viết essay không tốt nên level 3 là 1 thử thách đáng sợ nhất. Nhiều người thi xong đề essay buổi sáng nản quá & bỏ luôn kì thi buổi chiều.

Waa, tôi đã pass hết 3 level, vậy là được đeo lon CFA Charter rồi?
Không phải, sau khi pass hết 3 kì thi, bạn phải hội đủ thêm 1 số điều kiện nữa để trở thành CFA charter.
Cam kết tuân thủ đạo đức: nhiều candidate xem thường điều này, nhưng tuân thủ đạo đức là 1 vấn đề vô cùng quan trọng đối với CFA Institute. Thực tế là ở Việt Nam đã có 1 CFA Charter rất nổi tiếng  đã từng bị CFA Institute warning vì vấn đề không tuân thủ đạo đức theo chuẩn mực của CFA Institude.

Thành viên hiệp hội: để viết thêm 3 chữ CFA đằng sau tên bạn, bạn phải gia nhập thành viên hiệp hội CFA, lệ phí hàng năm là 275$. Do Việt Nam còn vướn 1 số thủ tục về thành lập hiệp hội nên hiện nay vẫn chưa có CFA society Việt Nam. Các CFA Charter phải gia nhập 1 hiệp hội khác ở Hồng Kong or Singapore…Nếu không đóng phí thành viên hàng năm thì không được đeo lon CFA nữa.

Kinh nghiệm làm việc: CFA chỉ xem xét những ai pass 3 level & có 4 năm kinh nghiệm trong ngành tài chính-đầu tư. Đây cũng là 1 thử thách cho nhiều người vì đã học xong 3 level, nhưng công việc không phù hợp nên không được CFA Institute chấp nhận. 

Người giới thiệu: bước cuối cùng sau khi đã hội đủ các điều kiện là bạn phải có 3 CFA Charter bảo lãnh, hoặc là 2 người, nhưng 1 trong 2 người đó là thành viên của hiệp hội tại quốc gia bạn muốn gia nhập. 
Kỉ lục gia trẻ CFA Charter trẻ tuổi nhất ở Việt Nam là anh Hà Trung Hiếu bởi khả năng học siêu tốc + kinh nghiệm làm việc (thực tập) trong quá trình du học + thời của a Hiếu CFA Institute chỉ yêu cầu 3 năm kinh nghiệm. Theo người viết được biết thì anh Hà Trung Hiếu đeo lon CFA lúc 23 tuổi. (Nếu a Hiếu có đọc bài này thì mong a confirm thông tin giúp em ạ)

Tốn bao lâu & bao nhiêu tiền để trở thành CFA Charter?

Điều này phụ thuộc vào việc bạn thi cử có hên không. Người giỏi & hên thì thi level 1 tháng 12, level 2 tháng 6, level 3 tháng 6 năm sau là xong hết. Người nào xui thì có thể thi mỗi level 2-3 lần mới pass. Số tiền bạn đóng cũng tuỳ thuộc vào số lần thi & thời gian đóng tiền. Đóng càng sớm thì phí thi càng rẻ. Tính ra mất khoảng 2500$-8500$.
Vì những điều kiện khắc nghiệt trên nên CFA luôn được xem là kì thì khó nhất trong lĩnh vực tài chính đầu tư. CFA Charter không chắc là siêu phàm, IQ trên 120, đầu tư hơn Buffet nhưng chắc chắn là người rất chăm chỉ, nổ lực & đam mê tài chính.

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

[Giải trí] 10 lý do tại sao học CFA thú vị hơn Sex


Trời Sài Gòn đang chuyển sang mùa nóng, sau khi tan sở làm cốc bia lạnh với bạn bè, hoặc đi dạo mát, ăn uống buổi tối với người yêu thì quá tuyệt vời. Tiếc là sau khi tan sở bạn phải tiếp tục chiến đấu với 6 cuốn sách CFA dày cộm trong tiết trời nóng bức. Nhiều khi bức xúc muốn đốt sách đi chơi cho nhẹ nợ. Nếu bạn đang trong tình cảnh này thì cảm xúc sẽ rất giống tôi & giống nhiều Vfer khác ở giai đoạn nước rút này.  Nhiều nghiên cứu cho rằng việc học tập bằng nhiều xúc giác,  liên tưởng đến các hình ảnh sẽ làm não bộ ghi nhớ tốt hơn & giúp việc học thú vị hơn. Và đặt biệt khi liên tưởng đến các vấn đề liên quan đến Sex sẽ kích thích bộ não & giúp bộ não ghi nhớ tốt nhất.  Dưới đây là 10 điểm mà học CFA còn thú vị hơn cả Sex, tất nhiên chỉ là những lí do vui giúp các bạn học CFA thư giãn đôi chút để tiếp tục công đoạn nhồi nhét kiến thức.

10/ Bạn dễ dàng tìm được ai đó để học cùng
9/ Nếu đang học giữa chừng mà thấy đuối, bạn có thể tạm dừng, lưu lại chỗ đang học dỡ để khi nào khoẻ học tiếp ngay chỗ đó.
8/ Bạn có thể kết thúc buổi học sớm hơn thường lệ mà không cảm thấy có lỗi hay xấu hổ.
7/ Khi bạn mở 1 cuốn sách để học, bạn không phải lo lắng là đã có ai “bóc tem” cuốn sách trước hay chưa. Học lại cuốn sách người khác đã học cũng chẳng sao.
6/ Chỉ cần 1 ly cà phê là bạn có thể học suốt đêm.
5/ Bạn có học hết chương hay không thì cũng không bị mang tiếng “quấy rối sách vở”
4/ Bạn có thể vừa học CFA, vừa ăn, vừa xem tivi
3/ E không cảm thấy ngượng nghịu nếu bố mẹ bạn đột ngột vào phòng & thấy bạn đang học CFA
2/ Bạn không phải uống cạn ly bia để lấy tinh thần trước khi học.
1/ Nếu bạn không biết phải học thế nào, có thể nhờ bạn cùng phòng chỉ cho bạn.

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

Tại sao nên đầu tư vào thị trường mới nổi (Emerging market)


Đối với nhà đầu tư cá nhân (đặt biệt ở VN) ít ai nghĩ đến việc đầu tư ra nước ngoài. Nhưng với các nhà đầu tư tổ chức trên thế giới, đầu tư vào các thị trường mới nổi (Emerging market) sẽ giúp họ có cơ hội tăng mạnh lợi nhuận cũng như phân tán được rủi ro. Nhưng năm gần đây, suất sinh lời ở thị trường mới nổi luôn cao hơn các nước phát triển. Từ năm 1987-2007, tính theo trung bình nhân (Geometric mean) suất sinh lời trung bình ở thị trường các nước phát triển là 8.9%, trong khi đó ở các nước mới nổi là 14.5%. Tuy nhiên, volatility ở thị trường mới nổi cao hơn hẳn ở các nước phát triển.
Nếu chỉ đứng riêng lẽ, đầu tư vào các nước mới nổi là rất rủi ro & khó dự đoán được bởi những lí do sau:
+ Chính trị & xã hội bất ổn
+ Cơ sở hạ tầng chưa phát triển
+ Nền giáo dục còn yếu kém
+ Tình trạng hối lộ, tham nhũng
Nhưng  khi xét trên góc độ quản lí danh mục đầu tư, thị trường các nước mới nổi có tương quan rất thấp so với các nước phát triển nên sẽ giúp đa dang hoá danh mục đầu tư, giảm rủi ro chung cho danh mục & tăng lợi nhuận kì vọng.  Các nhà đầu tư & phân tích đặt cược vào thị trường mới nổi vì tiến trình đô thị hoá, tự do hoá & hội nhập sẽ khiến dòng vốn nước ngoài đổ vào TT mới nổi nhiều hơn, tận dụng các lợi thế về nhân công & tài nguyên thiên nhiên ở đây. Hình vẽ dưới đây thống kê lợi nhuận của các quỹ đầu tư Mỹ khi đầu tư vào Emerging market từ năm 2003 đến nay.

 Nếu may mắn chọn đúng thời điểm & quốc gia, bạn có thể sẽ có suất sinh lời hơn 100%. Ở TTCK Việt Nam, đối với nhà đầu tư cá nhân ít vốn, chấp nhận rủi ro cao thì mua 1 cổ phiếu penny cũng có thể kiếm được hơn 100% 1 năm. Nhưng đối với nhà đầu tư tổ chức, do gặp nhiều giới hạn về quản trị rủi ro, tiêu chí chọn cổ phiếu…nên mỗi năm lãi 30% đã là quá tốt. Tuy nhiên, lợi nhuận cao đi kèm rủi ro cao. Nếu xui xẻo đầu tư vào Trung Quốc  hay Nga năm 2008 thì các quỹ ở Mỹ đã mất hơn 50% vốn.
Lợi nhuận khi đầu tư vào Emerging markets chịu tác động bởi những yếu tố như sức mua của đồng tiền nước đó, lạm phát, thanh khoản & chính sách của chính phủ các nước mới nổi trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, các Active Fund Manager hoàn toàn có thể thành công khi đầu tư vào Emerging market nếu họ hiểu và nhận diện được những yếu tố nào sẽ tác động đến các nước mới nổi. 

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

Chỉ số chứng khoán – yếu tố rất quan trọng đối với đầu tư tài chính


Các chỉ số chứng khoán nổi tiếng trên thế giới thường được ra đời nhờ các tờ báo lớn, ví dụ như Wall Street Journal tạo nên chỉ số Dow Jones, hay chỉ số Nikkei của Nhật Bản, chỉ số DAX của Đức. Các chỉ số này chỉ tính dựa trên giá các cổ phiếu trong rổ, không tính khối lượng vào. Mặc dù chỉ số chứng khoán đã có ở nhiều quốc gia từ trước những năm 1960, đến năm 1968 mới có 1 chỉ số chứng khoán có thể dùng làm tham chiếu (benchmark)để tính hiệu quả đầu tư. Đó là chỉ số Morgan Stanley Capital International (MSCI) được xây dựng bởi Capital Group. Chỉ số này ưu việt hơn các chỉ số trước đó bởi nó tính theo market-cap weighting, công khai các thành phần của chỉ số cũng như cung cấp số liệu quá khứ của các cổ phiếu trong chỉ số. Tuy nhiên, nhược điểm của chỉ số này là nó chỉ bao gồm 60% vốn hoá thị trường của những quốc gia & ngành có trong chỉ số.
Khi quản lý danh mục đầu tư, bạn cần phải có 1 chỉ số nào đó làm benchmark để đánh giá kết quả của Fund manager. Một index được tạo thành từ càng nhiều ngành & công ty trên thị trường thì nó càng phản ánh đúng diễn biến thị trường. Các tính index cũng là 1 đặc điểm vô cùng quan trọng của 1 chỉ số chứng khoán. Ba phương pháp cơ bản đó là tính tỉ trọng theo giá (price weighted), theo giá trị (Value weighted) & tỉ trọng tất cả đều bằng nhau (equal weighted).
Mỗi cách tính chỉ số bị thiên lệch theo những cách khác nhau. Đối với Price weighted, giả sử Vnindex được tính theo Price weighted thì cổ phiếu GMD tăng 3% chỉ có tác động vào Vnindex bằng 1% tăng giá của MSN, vì giá MSN cao gấp 3 lần GMD. 1 chỉ số nổi tiếng dùng phương pháp price weighted này là Nikkei 225, nhưng nó đã bỏ những cổ phiếu có giá rất cao ra khỏi index để tránh việc index bị bóp méo bởi các cổ phiếu giá cao này.  
Đối với value weighted index, giống như cách tính chỉ số Vnindex hiện nay, ta hay thấy những phiên “xanh vỏ đỏ lòng”, đội lái dùng các mã vốn hoá cao để đỡ index “xả hàng”… đó là vì tính chỉ số theo vốn hoá thị trường sẽ bị thiên lệch bởi các cổ phiếu có vốn hoá lớn. 1 nhược điểm nữa của loại chỉ số này là nó không điều chỉnh cho lượng cổ phiếu free float ( những cổ phiếu trôi nổi mà nhà đầu tư có thể mua được). Ví dụ ở Việt Nam, vốn hoá của các index thường cao hơn thực tế, cao hơn giá trị mà nhà đầu tư có thể mua bán được. Các công ty lớn hoặc cùng chung 1 họ PV hay VC, SD thường nắm giữ 1 lượng lớn cổ phiếu của nhau. Như vậy không phải tất cả cổ phiếu của những công ty niêm yết đều có thể đem ra trade được. Chỉ số gặp tình trạng này đã tính double giá trị của 2 công ty nắm giữ cổ phiếu của nhau. Vì vậy 1 chỉ số muốn phải ánh đúng vốn hoá của toàn thị trường chỉ nên tính phần cổ phiếu có thể trade được (free float).
Thực tế, nhiều cao thủ TA ở VN đã tự xây dựng 1 chỉ số chứng khoán riêng cho mình để loại bỏ hiệu ứng của nhóm các cổ phiếu vốn hoá lớn ra. Cách làm này được áp dụng & hướng dẫn làm đầu tiên trên internet là từ anh Vietcurrency (theo người viết biết) dựa trên công cụ composite Index của Amibroker.

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Có nền tảng kiến thức & đang làm việc trong lĩnh vực tài chính sẽ giúp bạn thi CFA tốt hơn?


Nhiều bạn học CFA lo lắng rằng mình không làm việc trong ngành, lại học Ngoại Thương, Quản trị kinh doanh…không liên quan đến tài chính thì thi CFA liệu có ổn không?
Dựa vào kết quả thi CFA tháng 12-2012, 1 khảo sát của trang web 300hours về background & nghề nghiệp hiện tại của các ứng viên CFA & kết quả hết sức thú vị. Tỉ lệ đậu CFA có tương quan thế nào với những người làm việc trong ngành, có nền tảng tài chính so với những người không có những lợi thế đó?
Đồ thị trên chia số người thi CFA thành 4 nhóm: Làm trong ngành & có nền tảng tài chính,  chỉ làm trong ngành tài chính, chỉ học về tài chính & không làm việc cũng ko có nền tảng kiến thức tài chính.

Theo đó, những người không biết tí gì về tài chính trước khi học CFA có tỉ lệ đỗ cao hơn 6% so với những người đã được học về tài chính trước đó, và gần bằng những người làm việc trong lĩnh vực tài chính. Ngược lại, những người đã có bằng cử nhân kinh tế, tài chính nhưng không làm trong ngành thì lại có  tỉ lệ đỗ thấp nhất. Nguyên nhân có thể là do họ chủ quan với kiến thức sẵn có, lại không ứng dụng kiến thức vào công việc nên họ không có sự chuẩn bị tốt nhất cho kì thi.
Cuộc khảo sát còn chỉ rõ ra môn nào là điểm mạnh, môn nào khiến các nhóm thí sinh kia rớt nhiều nhất. Theo đó:
Nhóm vừa làm vừa học tài chính: tỉ lệ đỗ cao đều ở tất cả các môn
Nhóm chỉ làm trong ngành: tệ nhất là môn Fixed income, Portfolio Management, Quantitative Methods. Hơi tệ môn Economics.        
Nhóm chỉ có học về tài chính: rất mạnh ở môn Fixed Income & Quantitative Methods, nhưng hơi yếu ở các môn còn lại. Điều này cho thấy không phải cứ được học đại học chuyên ngành tài chính từ trước là thi CFA ngon lành.
Nhóm không biết gì về tài chính: yếu các môn Fixed Income & Quantitative Methods nhưng rất giỏi môn Economics, Portfolio Management, &  Alternative Investments. Thực tế mình có nhiều bạn học Ngoại Thương, Kinh tế đối ngoại, không biết nhiều về tài chính nhưng học rất thông minh & chăm chỉ. Kết quả thi đều đậu rất cao (9 môn trên 70%), mình thuộc nhóm vừa có background, vừa làm trong ngành nhưng thi cũng chỉ vừa đủ lết qua vạch vôi.
Túm lại, học & thi CFA thì điều quan trọng nhất là quyết tâm & học hành chăm chỉ. Được làm việc trong ngành hoặc biết tài chính từ trước cũng là 1 lợi thế, nhưng không quyết định được việc bạn sẽ đậu. Ngược lại, không background, không làm trong ngành nhưng đam mê, quyết tâm cao độ, học hành nghiêm túc  thì ngày đeo lon CFA Charters Holder sẽ không xa xôi!

Thứ Tư, 27 tháng 2, 2013

Định giá doanh nghiệp - The dark side of valuation


Dân phân tích cơ bản & chuyên về valuation không xa lạ gì với cái tên Aswath Damodaran, giáo sư của NYU lừng lẫy về định giá. Trang blog musings on markets cũng chứa rất nhiều tài liệu & data cho sinh viên hoặc những người muốn nghiên cứu chuyên sâu về valuation. Trong việc định giá doanh nghiệp & đầu tư, bỏ tiền vào các công ty sơ khai & có tốc độ tăng trưởng nhanh là rất rủi ro nhưng kì vọng lợi nhuận đột biến rất cao. Dưới đây là 1 phần nội dung quyển sách “ The Dark side of valuation” của ông.
1/ Những khó khăn khi định giá 1 doanh nghiệp sơ khai (young company) đó là không thể dựa vào dữ liệu quá khứ để dự phóng doanh thu, lợi nhuận, dòng tiền của young company được. Liệu công ty có vượt qua được các đối thủ cạnh tranh & chiếm lấy thị phần để phát triển cũng là 1 vấn đề khó dự đoán.
2/ Đừng “gửi trọn niềm tin” vào hệ số Beta từ phương pháp phân tích hồi quy
3/ Chi phí sử dụng vốn sẽ thay đổi theo thời gian
4/ Dùng những số liệu cập nhật nhất & dòng tiền tự do (FCF) sẽ thường xuyên âm cho dù công ty có tạo ra doanh thu
5/ Rất nhiều chi phí hoạt động có thể vốn hoá thành tài sản được: Vì young company tập trung vào tăng trưởng trong tương lai, nhiều chi phí tuy hạch toán kế toán là chi phí bán hàng, quản lý chung nhưng cần điều chỉnh thành CAPEX  & vốn hoá vào tài sản cố định
6/ Chắc chắn bạn sẽ sai mà không phải do lỗi của bạn: dù bạn có cẩn thận đến đâu & model tốt cách
mấy thì kết quả ước tính của bị thay đổi bởi những thông tin mới về công ty, nền kinh tế…
7/ Điều an ủi là thị trường đôi khi còn sai lầm & điên cuồng hơn bạn rất nhiều: cụ thể trường hợp Amazon, giá thị trường có lúc cao hơn giá trị thực gấp 3 lần (hoặc trường hợp TTCK VN, lúc đạt đỉnh ~1100 đã vượt xa giá trị thực, với P/E lên đến trên 25)
8/ Sự không chắc chắn là 1 đặc điểm nổi bậc khi định giá các công ty sơ  khai

Thứ Ba, 19 tháng 2, 2013

10 điều bạn cần biết trước khi đăng kí thi CFA


2 năm trước, sau 1 thời gian tìm hiểu tôi đã có 1 cú click chuột tốn hơn 1000$, click để đăng kí thi CFA level  1. Lúc đó lượng người học CFA ở Việt Nam chưa đông như hiện nay, thông tin về CFA trên các diễn đàn không nhiều, cũng không quen biết ai đã trải qua hết 3 kì thi để hỏi kinh nghiệm học & thi. Ước gì lúc đó có ai nói cho tôi biết 1 số kinh nghiệm xương máu khi lỡ tay đăng kí CFA thì chặng đường đã đỡ đau khổ hơn 1 ít. Ví dụ như Level 1 thì chỉ cần học Kaplan + đánh lụi là đã đủ đậu, không có ai cảnh báo tôi rằng level 2 thật là chua cay, học trước quên sau, khó gấp 3 lần level 1. Còn level 3 thì ăn thua hên xui, tỉ lệ đậu toàn cầu 50% nhưng ở Việt Nam chỉ tầm 30%. Còn đúng 100 ngày nữa là đến kì thi CFA tháng 6/2013, dưới đây là những điều tôi đã không biết trước khi đăng kí CFA, 1 số là những kỉ niệm vui, còn 1 số điều sẽ rất quan trọng cho những ai đang cân nhắc học CFA:
1/ Trước kì thi 6 tháng, tôi không còn 1 ngày nghỉ cuối tuần nào cả: sau 1 tuần làm việc mệt mỏi, tôi phải  học cật lực 2 ngày cuối tuần để kịp tiến độ. Những kì nghỉ dài như lễ 30/4 là cơ hội tốt để cày từ sáng đến khuya. 3 kì thi bằng 18 tháng ko có ngày cuối tuần.
2/ Bị bạn bè bỏ rơi: trước khi học CFA tôi hay tụ tập với bạn bè, chơi thể thao, PS3, Bi-a. Giai đoạn ôn thi từ chối đi chơi quá, cuối cùng lần sau bạn bè đi chơi không thèm rủ tôi nữa :D
3/ Phải bắt đầu thật sớm cơ hội đậu mới cao: quen thói sinh viên nước đến chân nhảy mới cao, tôi bắt đầu học khá trễ nên giai đoạn nước rút học đến bạc tóc mới xong hết được. Giai đoạn cuối uống café nhiều hơn uống nước.
4/ Phải học vài lần mới nhớ: giáo trình tới 6 cuốn sách nặng đô, học 1 lèo xong 6 cuốn, feel like a boss, nhưng ngó lại cuốn 1 thì thấy quên hết ráo.
5/ giáo trình của CFA institute thật là khó nuốt: sách của CFA viết khá lòng vòng, nhiều ý nhưng chỉ yêu  cầu nhớ 1 số điểm chính. Vì vậy nếu dư giả thời gian đọc sách của CFA có rất nhiều kiến thức, nhưng nếu chỉ ôn thi để đậu thì học sách của Kaplan dễ hơn rất nhiều.
6/ Mặc dù tỉ lệ đậu của level 1 thấp hơn level 2 & 3, nhưng thực sự lên 1 level độ khó tăng gấp mấy lần. Trong đó level 2 đóng vai trò quyết định. Nhiều người bỏ nhiều công sức học level 2 nhưng không pass được nên đã bỏ luôn CFA.
7/ Cách tính điểm đậu của CFA là lấy 70% số điểm của 10% thí sinh cao điểm nhất làm điểm chuẩn. 10% cao điểm nhất trâu bò lắm thì chỉ được tầm 90/100 điểm. Vì vậy bạn chỉ cần làm đúng tầm 63% là có cơ hội đậu rồi (lúc trước cứ ngỡ 70% mới đậu)
8/ Trước kì thi, bạn sẽ rất stress vì còn nhiều chương chưa học xong. Trong khi đó, bạn bè thấy mình căng thẳng quá lại tới an ủi như 1 chuyên gia CFA: level 1 dễ lắm, không sợ đâu; mày thi đậu level 1 thì cũng có nền tảng & kinh nghiệm rồi, sẽ đậu level 2 thôi; level 3 tỉ lệ đậu đến 50% lận mà, tự tin lên nào
9/ Ngày có kết quả thi rất hồi hộp và đáng nhớ: 9h đêm mới có, cả ngày không làm được gì, lạy trời khấn phật, hứa hẹn ăn chay. Công sức 6 tháng trời cày vất vả, pass level 1 rất hạnh  phúc, it’s better than sex, mình thật là giỏi, ta phục ta quá. Pass level 2 thấy rất vui nhưng không hiểu sao không vui bằng pass level 1, mặc dù chặng đường vất vả hơn. Pass level 3 thì thấy nhẹ nhõm, không hiểu sao mình làm tệ hại, viết nhăng viết cuội mà cũng đậu.
10/ CFA cũng chỉ là 1 chứng chỉ nghề nghiệp, không phải là quyển cửu âm chân kinh hay độc cô cửu kiếm, học xong thiên hạ vô địch. Quan trọng là vận dụng những kiến thức & kỉ năng đã học được như thế nào chứ không phải có được tấm bằng là có tất cả. 

Chủ Nhật, 17 tháng 2, 2013

Tài sản lớn nhất trong danh mục đầu tư là chính bản thân mình!


Loại tài sản có giá trị lớn nhất trong danh mục đầu tư của bạn? Chứng khoán, bất động sản, hay vàng…? Không, đó là chính bản thân bạn, hay thuật ngữ tài chính gọi là human capital.
Theo định nghĩa hàn lâm thì Human capital (vốn nhân sinh) là hiện giá của nguồn thu nhập của bạn trong tương lai. Vốn nhân sinh không được mua bán trao đổi ngay lập tức theo kiểu định giá dòng tiền của cổ phiếu hay trái phiếu. Theo tài liệu của CFA institute thì trung bình 1 nhà đầu tư 25 tuổi ở Mỹ có human capital khoảng 900,000$ trong khi tài sản tài chính chỉ chiếm 1/10 tổng tài sản (100,000$). Vốn nhân sinh tỉ lệ nghịch với độ tuổi, khi được 65 tuổi, Human capital giảm xuống zero, trong khi tài sản tài chính sẽ đạt đỉnh tầm 1 triệu USD.

Nghiên cứu về Human capital rất quan trọng trong việc quản lí danh mục đầu tư để ước lượng khả năng chịu đựng rủi ro của nhà đầu tư. Human capital chiếm 1 tỉ trọng rất lớn trong danh mục, vì vậy nguyên tắc đa dạng hoá danh mục đầu tư không chỉ không bỏ trứng chung 1 giỏ, mà còn phải đa dạng hoá so với Vốn nhân sinh của mình. Một giáo sư đại học có thể đầu tư nhiều hơn vào cổ phiếu vì họ có nguồn thu nhập ổn định & thu nhập này không có sự tương quan nhiều với TTCK. Trong khi đó, 1 Broker chứng khoán không nên tất tay vào cổ phiếu vì phần lớn human capital của họ đã đặt cược vào sự tăng trưởng của TTCK.  

Tương tự như các tài sản tài chính khác, tài sản vốn nhân sinh này cũng có những tính chất về risk & return. Tuy nhiên, risk của human capital khác hẳn các loại tài sản tài chính khác. Risk của tài sản tài chính là rủi ro tỉ giá, rủi ro thị trường, rủi ro chính trị…Còn risk của Vốn nhân sinh là rủi ro chết sớm & rủi ro sống dai :D.  Khi thành viên trụ cột trong gia đình đột tử hoặc tai nạn mất khả năng lao động, tài sản Vốn nhân sinh sẽ về zero ngay lập tức & gây ảnh hưởng rất xấu đến danh mục đầu tư của người đó. Bảo hiểm nhân thọ chính là công cụ để hedge loại rủi ro này. Ngược lại với rủi ro chết sớm là rủi ro sống dai, nghĩa là sau khi về hưu, người này chỉ dự trù sống đến 85 tuổi nên quyên góp tài sản làm từ thiện hết, vì vậy những năm cuối đời không còn tiền để trang trải. Loại rủi ro này cũng dùng các sản phẩm bảo hiểm hưu trí để phòng ngừa.

Human capital là nguồn vốn vô cùng quan trọng đối với mọi nhà đầu tư & đặc biệt giá trị đối với các nhà đầu tư trẻ tuổi. Vì vậy, ngoài việc cố gắng kiếm thêm lợi nhuận từ chứng khoán, các nhà đầu tư cần quan tâm hơn nữa đến tài sản vốn nhân sinh của mình. Nâng cao trình độ, tăng thêm thu nhập hàng tháng từ công việc full time sẽ giúp bạn tăng khả năng chịu đựng rủi ro & tích luỹ nhiều tiền hơn để đầu tư khi TTCK tăng trưởng mạnh. 

Thứ Sáu, 8 tháng 2, 2013

Cơ bản về định giá bằng Free Cash Flow

Tính giá trị doanh nghiệp bằng cách dự phóng dòng tiền tự do cho doanh nghiệp (Free cash flowto Firm) hoặc dòng tiền tự do cho cổ đông (Free cash flow to Equity) là 1 mô hình định giá được áp dụng rộng rãi trên thế giới. Mô hình này thích hợp khi định giá những công ty:
1/ Không trả cổ tức hoặc trả cổ tức ít hơn dòng tiền kiếm được
2/ FCF tương ứng với khả năng sinh lời của doanh nghiệp
3/ Thường dùng khi định giá để mua bán sở hữu doanh nghiệp

Để tiếp cận model này 1 cách đơn giản, bạn hãy quên hết những công thức tính dòng tiền phức tạp mà chỉ xem doanh nghiệp như 1 cổ máy tạo tiền. Tiền vào đến từ việc bán sản phẩm, tiền ra là để chi trả lương, thuế & các chi phí hoạt động khác. Ngoài ra để cổ máy này hoạt động trơn tru thì phải bỏ tiền mua nhiên liệu, xăng nhớt… (đây chính là hàng tồn kho, phải thu & đầu tư tài sản lưu động khác), lâu lâu phải lắp thêm cánh quạt, mô tơ để máy chạy mướt hơn (đầu tư tài sản cố định). Chênh lệch giữa tiền vào và tiền ra chính là Free CF cho các nhà đầu tư vào cổ máy(FCFF). Nhà đầu tư có 2 loại là chủ nợ & chủ sở hữu. Theo luật thì chủ nợ được quyền lấy tiền lãi trước chủ sở hữu. Vì vậy khoản FCFF ở trên nếu trừ tiền trả nợ gốc và lãi ra sẽ là dòng tiền tự do cho cổ đông (FCFE).

Khi áp dụng mô hình này phải tiến hành 4 bước cơ bản sau:
+ Thu thập BCTC doanh nghiệp, dự phóng FCF hàng năm trong khoảng thời gian định giá
+ Tính terminal value với giá định sau bao nhiêu năm doanh nghiệp sẽ tăng trưởng ổn định mãi mãi
+ Chọn suất chiết khấu hợp lý
+ Chiết khấu FCF & terminal value về hiện tại & cộng 2 giá trị này với nhau.

Điểm yếu của mô hình là nó quá phụ thuộc vào các giả định. Dự phóng tăng trưởng FCF hàng năm bao nhiêu % là hợp lý? điều này phụ thuộc vào tăng trưởng doanh thu, lợi nhuận, chiến lược cạnh tranh, đặc điểm của ngành… đến khi nào doanh nghiệp sẽ tăng trưởng ổn định mãi mãi?
Suất chiết khấu hợp lý là 1 khó khăn của mô hình này & của tất cả các mô hình tài chính phải chiết khấu dòng tiền. Nếu dùng FCFF thì suất chiết khấu là bình quân chi phí sử dụng vốn (WACC), còn FCFE thì dùng required return của cổ đông là suất chiết khấu.

Tất nhiên, mô hình tài chính này chỉ là ước tính giá trị doanh nghiệp về dài hạn & rất nhạy cảm với suất chiết khấu & giả định của analyst. Vì vậy nếu bạn áp dụng mô hình này để trading ngắn hạn & thất bại thì cũng đừng chửi rủa model cùi bắp nhé. Nhưng trong 1 trường hợp khác, MSN muốn mua 1 công ty sơ khai chưa lên sàn, bác Đăng Quang đến hỏi e: “giờ anh mua thằng này giá bao nhiêu là đẹp chú?”. E trả lời: “ 600 tỷ là đẹp anh ơi, vì e post bài lên Vfpress mấy anh em bảo 700 tỉ mắc quá, nên e nghĩ a ra giá 600 tỉ đi” (just kidding)
Trong trường hợp này, không thể dùng PTKT hay chiết khấu cổ tức để định giá công ty này được, vì vậy e phải nghiên cứu ngành, đặt ra các giả định hợp lý & logic để định giá công ty mục tiêu này bằng FCF model. Các giả định càng chính xác & hợp lý bao nhiêu thì mô hình sẽ cho ra giá xác với giá trị thật bấy nhiêu, lúc đó mới ăn tiền phí tư vấn của bác Quang được.

Bài viết này chỉ là những điều rất cơ bản về FCF, hi vọng sẽ có nhiều đóng góp tranh luận của các chuyên gia phân tích cơ bản trên Vfpress
P/s: trong phỏng vấn xin việc equity analyst ở các CTCK & quỹ đầu tư, gần như chắc chắn sẽ có câu hỏi: mày biết gì về DCF, kể a nghe vài đường cơ bản, ưu khuyết điểm & so sánh với các phương pháp khác a nghe

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2013

[Risk management] Phân loại rủi ro tỉ giá



Đầu tư luôn tiềm ẩn rủi ro. Nếu vụ đầu tư nào không có rủi ro, lợi nhuận kì vọng chắc chắn sẽ rất thấp. Thuật ngữ high risk high EXPECTED return (mà mọi người thường bỏ quên chữ EXPECTED) xuất hiện từ thời La Mã & vẫn luôn đúng trong đầu tư & kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp, ngân hàng, quỹ đầu tư… mãi chạy theo chữ return, bỏ quên chữ RISK dẫn đến nhiều hậu quả to lớn. Bong bóng bất động sản ở VN là 1 ví dụ điển hình cho việc chạy theo high return làm cho nhiều công ty bất động sản, ngân hàng & nhà nước phải điêu đứng & vẫn đang loay hoay tìm cách giải quyết cục nợ này.
Kỹ nghệ tài chính ngày càng phát triển làm cho rất nhiều sáng kiến kiểm soát, hedging rủi ro ra đời. Nhưng trước khi tìm cách hedging rủi ro, hãy tiến hành phân loại các loại rủi ro khác nhau mà bất kì doanh nghiệp nào cũng có thể gặp phải.
Các rủi ro 1 doanh nghiệp gặp phải có thể phân thành 2 loại là rủi ro tài chính & rủi ro phi tài chính như hình vẽ bên dưới:

Trong đó, loại rủi ro mà chúng ta quen thuộc nhất chính là rủi ro thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất, rủi ro tỉ giá, rủi ro giá cả hàng hoá & rủi ro giá chứng khoán. 
Để phân tích, đánh giá & hedging cho tất cả các loại rủi ro trên có lẽ phải viết 1 bài nghiên cứu hàng trăm trang mới đủ. Trong 1 bài viết tầm 1000 chữ thế này, người viết chỉ xin giới thiệu đến bạn đọc 1 loại risk rất phổ biến, nhiều doanh nghiệp gặp phải & có thể dùng các công cụ phái sinh để hedging được, đó là rủi ro tỉ giá.
Rủi ro tỉ giá biến động ảnh hưởng đến rất nhiều loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty đa quốc gia (MNC). Bất kì công ty nào có hoạt động mua bán hàng hoá với đối tác ở nước ngoài đều chịu loại rủi ro này. Rủi ro tỉ giá được phân thành 3 loại:

1/ Rủi ro giao dịch (Transaction exposure)
Rủi ro giao dịch nảy sinh khi 1 công ty A bán hàng cho công ty B ở nước ngoài & sẽ thu tiền trong tương lai gần. Vì xuất khẩu nên sẽ thu về đồng ngoại tệ, như vậy nếu tỉ giá biến động mạnh thì công ty A sẽ đổi ngoại tệ thành nội tệ không đúng với kì vọng của họ. Công ty A có thể dự đoán tốt nhu cầu tiêu dùng ở nước B, đặt giá bán cạnh tranh, kiếm lời được 10% cho lô hàng đó. Nhưng họ không phải là chuyên gia về tỉ giá nên rất khó dự đoán từ lúc bán hàng đến khi nhận tiền ngoại tệ về, tỉ giá sẽ biến động thế nào. Giả sử nhận 1 cục ngoại tệ về, ngoại tệ đó mất giá 10% so với lúc bán hàng thì xem như toàn bộ lợi nhuận của lô hàng bị tỉ giá ăn hết. Vì vậy nhiều doanh nghiệp chọn cách dùng derivaties chốt 1 tỉ giá dòng tiền mình sẽ nhận được luôn.

2/ translation exposure

Ngoài rủi ro về dòng tiền, tỉ giá còn ảnh hưởng việc chuyển đơn vị tiền tệ của báo cáo tài chính từ đồng nội tệ sang ngoại tệ. Ví dụ 1 MNC có chi nhánh ở nhiều quốc gia, cuối năm muốn hợp nhất báo cáo tài chính về đồng USD, trong khi công ty con ở VN lại trình bày bằng đồng VND. Lợi nhuận theo BCTC cty con là tăng 20% so với đầu năm, nhưng do tỉ giá USD: VND tăng lên, khiến cho khi đổi BCTC sang đồng tiền USD lợi nhuận chỉ còn tăng 15%. Loại rủi ro này gọi là translation exposure. Không phải tất cả các MNC đều chịu rủi ro này. Nhiều MNC tổ chức hệ thống kế toán, phần mềm kế toán nhất quán cho cả tập đoàn nên quy định mọi chi nhánh phải hạch toán chung 1 đồng tiền. Vì vậy khi translation BCTC sẽ ko gặp loại rủi ro này.

3/ Rủi ro kinh tế (economic exposure)

Cuối cùng, tỉ giá biến động có thể làm cho hàng hoá & dịch vụ của công ty A mất lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm tương tự ở quốc gia khác. Loại rủi ro này tác động đến tất cả các công ty, bất kể là công ty đó có giao dịch ở thị trường nước ngoài hay không. Ví dụ đồng Bạc Thái tự nhiên tăng giá trị lên, làm hàng hoá dịch vụ của Thái sẽ mắc lên tương đối so với đồng VND. Ngày trước người VN hay qua Thái du lịch thư giãn vì giá rẻ và…, tự nhiên bi giờ đổi tiền qua Thái chơi thấy mắc lên nên số người đi sẽ ít hơn
Các  cty du lịch ăn uống & các dịch vụ khác của Thái bị giảm doanh thu do ít khách hơ , mặc dù tất cả các giao dịch đều dùng đồng bạc Thái ở nước Thái, ko có giao dịch nào ở nước ngoài. Đây chính là economic risk.
Trong  3 loại exchange rate risk như trên, translation risk muốn giảm thì phải tập trung thật nhiều vào kế toán hàng ngày, hàng tháng, rất phứt tạp & ko hiệu quả. Economic risk muốn giảm thì phải dự đoán thay đổi tỉ giá, cung cầu ngoại tệ của thị trường để đoán hướng đi tỉ giá, cũng rất phứt tạp & gần như ngoài tầm của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp chỉ tập trung vào transaction risk. Có rất nhiều công cụ, & dễ hedging vì doanh nghiệp biết rõ transaction nào bị risk đồng ngoại tệ gì nên hedging không khó.
Các công cụ để hedging transation risk là các sản phẩm phái sinh (derivatives) như forward, option, future, swap, mỗi loại có 1 đặc điểm riêng & phí khác nhau. DN tuỳ theo yêu cầu mà dùng loại nào cho hiệu quả