Hầu hết các học thuyết tài chính hiện đại đều dựa trên giả định thị trường hiệu quả: thị trường đã phản ánh đầy đủ, chính xác & ngay lập tức tất cả các thông tin có thể có được vào giá chứng khoán. Tuy nhiên, Efficient market hypothesis (EMH) không được chấp nhận tuyệt đối. Từ ngày EHM được khai sinh, có rất nhiều nghiên cứu để ủng hộ và phản đối thuyết này.
Trong 1 bài viết về EMH trên Financial Time năm 2009, Thaler nhận xét rằng “ giá chứng khoán luôn đúng” và “ không có bữa ăn nào miễn phí”. Ngụ ý của Thaler rằng giá chứng khoán đã phản ánh mọi thông tin của thị trường, và rất có để các nhà đầu tư có thể đánh bại thị trường năm này qua năm khác. Ngoại trừ những nhà đầu tư đặc biệt siêu cấp như Buffett thì hầu hết đều thua thị trường nếu xét trong 1 thời gian dài.
Khái niệm bước đi ngẫu nhiên đã có từ đầu thế kỷ 20, nhưng đến năm 1970, Fama mới định nghĩa cụ thể & dễ hiểu về EMH. Ông đưa ra 3 khái niệm của thị trường hiệu quả: Dạng yếu, dạng khá mạnh & mạnh. EMH dạng yếu giả định rằng mọi thông tin quá khứ về giá & khối lượng đã phản ánh đầy đủ vào giá chứng khoán. Vì vậy nếu thị trường ở dạng hiệu quả yếu, phân tích kĩ thuật không thể kiếm lợi nhuận phi thường được. Dạng mạnh vừa giả định rằng mọi thông tin quá khứ và hiện tại đã phản ánh hết vào giá, vì vậy cả TA & FA đều không thể dùng để kiếm abnormal return được. Thị trường hiệu quả dạng mạnh giả định mọi thông tin quá khứ hiện tại, đã công bố hay chưa công bố, tin mật của đội lái…đều được phản ánh hết vào giá. Vì vậy ngay cả có tin nội dán trong công ty cũng không thể kiếm được lợi nhuận phi thường, vì chỉ vài giây là là mọi thông tin public lên VFpress cả.
Ý tưởng về EMH được ra đời ở đầu thế kỷ 20. Năm 1990, cầu thủ người Pháp tên Frank Ribery-à không phải, nhà toán học người Pháp tên Louis Bachelier nộp luận án Tiến sĩ với tựa đề “đầu cơ chân kinh” (The Theory of Speculation) và miêu tả rằng bước đi của thị trường là ngẫu nhiên. Ngay đoạn mở đầu, Ông viết: “ thông tin quá khứ, hiện tại, thậm chí cả tương lai đều phản ánh cả vào giá cổ phiếu, nhưng thường không thể hiện 1 mối liên hệ rõ ràng với sự biến động giá hàng ngày”. Sau đó,có nhiều nghiên cứu thực nghiệm, thống kê để bảo vệ EHM (phần lớn các nghiên cứu thống kê thị trường chứng khoán nhằm vào dạng weak EHM). Rất nhiều thống kê cho rằng không thể dùng biến động giá quá khứ để dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai (kháng cự vững mấy mà có đội lái xịn là khoan thủng hết, gặp kháng cự, tin tưởng biểu đồ giá quá khư bán là mất hàng ráng chịu :D ). Năm 1965, Fama nghiên cứu và kết luận rằng biến động hằng ngày của giá cổ phiếu gần như chẳng liên quan gì đến nhau (zero positive correlation). Năm 1973, Malkiel dùng 1 thực nghiệm rất thuyết phục để chứng minh bước đi ngẫu nhiên của giá cổ phiếu & dìm hàng dân phân tích kĩ thuật (chartist). Ông giả định 1 cổ phiếu ABC giá 50$ & cho đám sinh viên gieo đồng xu. Nếu mặt xấp thì giá cổ phiếu ABC tăng 1$, mặt ngửa thì giảm 1$. Mỗi lần gieo, cơ hội giá cổ phiếu tăng giảm so với phiên trước là 50/50. Sau đó Ông thu thập data lại và vẽ chart theo đúng kết quả gieo đồng xu ngẫu nhiên cho 1 chuyên gia PTKT xem. Chartist này khuyên ông hãy mua cổ phiếu ABC ngay, cốc tay cầm rõ ràng, không mua nhanh tàu chạy mất. Sau khi Malkiel nói rằng Tao gieo xu vẽ chart chọc mày chơi thôi, chartist này rất tức giận.
Ngoài ra, nhiều nghiên cứu nhằm vào các Active manager để chứng minh rằng có cố mấy thì xác suất thắng thị trường cũng 50/50. Cowles (1933) phân tích hàng ngàn cổ phiếu được chọn bởi các chuyên gia từ năm 1928-1933 và cho thấy rằng khả năng chọn hàng chiến của các chuyên gia cũng hên xui. Năm 1967, Jensen cũng làm 1 phân tích định lượng hoành tráng, dùng danh mục của 115 mutual funds chạy hồi quy. Kết quả fund return sau khi trừ phí quản lí thì còn thấp hơn cả S&P 500. Thực nghiệm gần đay của VFpress gây được tiếng vang lớn đó là cuộc thi “ai kiếm tiền hơn học sinh lớp 2”, các cháu lớp 2 không biết cổ phiếu là gì vẫn đánh bại được thị trường (chẳng bù cho bố & các chú của cháu, học hành đánh đấm đủ thể loại vẫn lõm).
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nghiên cứu cho rằng thị trường không hiệu quả, ít nhất trong 1 số thời điểm nhất định nào đó. Tiêu biểu là nghiên cứu về “hiệu ứng tháng Giêng” của Kinney năm 1976: tháng Giêng thường lợi nhuận đầu tư cổ phiếu cao hơn các tháng khác. Hoặc “hiệu ứng ngày thứ Hai” của Gibbons năm 1981 cho thấy giá cổ phiếu thường giảm vào ngày thứ 2. (hôm qua thứ 2 VN-index cũng mất điểm).
(còn tiếp...)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét