Thứ Hai, 31 tháng 12, 2012

Hiệu ứng tháng giêng - Nhà đầu tư nên làm gì?

January effect là hiện tượng giá cổ phiếu tăng mạnh trong khoảng thời gian từ 31/12 đến 5/1 năm sau. Hiện tượng này tạo cơ hội cho các nhà đầu tư mua cổ phiếu giá rẻ vào cuối năm & bán chúng khi giá tăng vào đầu năm sau.
Một số giả thuyết liên quan đến tài chính hành vi để giải thích cho hiện tượng này: (1) các nhà đầu tư bán các cổ phiếu đang lỗ để giảm thuế phải nộp; (2) các nhà đầu tư bán các cổ phiếu đang lãi để hiện thực hóa lợi nhuận; Một lí do khác là nhiều người thường có khoản bonus cuối năm & dùng số tiền này mua chứng khoán lấy hên đầu năm. Nhiều người cùng làm như vậy nên vô tình làm cầu chứng khoán tăng mạnh đầu năm...
http://cafef.vn/thi-truong-chung-kh...g-khoan-co-tang-manh-2012122708087129ca31.chn
Cafef có 1 thống kê giá chứng khoán Việt Nam sau tết dương lịch 6 năm gần đây, tỉ số là 3-3. Nhưng 3 năm gần đây thì tháng 1 TTCK năm 2010 là giảm nhẹ, còn 2 năm gần nhất là tăng mạnh.
Ngay cả đến thread tháng 12 của Vfpress.vn cũng là “ chốt sổ không ồn ào”, cho thấy có rất nhiều nhà đầu tư muốn chốt lãi lỗ cuối năm để tổng kết 1 năm trading của mình. Cộng với việc chỉ số Vnindex đã chạm kháng cự mạnh ở ~410 và đang ở vùng quá mua, chỉ số Vnindex buộc phải điều chỉnh là điều khó tránh khỏi.
Vậy, nhà đầu tư cá nhân có thể tận dụng January effect này thế nào cho hiệu quả?
Mỗi người có 1 phương pháp trading & quan điểm thị trường riêng. Nhà đầu tư trung hạn, ít lướt lát có thể gia tăng tỉ lệ cổ phiếu trong những phiên giảm điểm để mua được cổ phiếu giá rẻ trong uptrend. Nếu thị trường uptrend dài hạn, nhà đầu tư lướt sóng tốn nhiều thời gian & công sức hơn, nhưng chưa chắc đã có suất sinh lời cao hơn 1 NĐT chỉ ôm 1 cổ phiếu tốt.
Đối với các active trader, người luôn muốn tối đa hoá lợi nhuận bằng cách cơ cấu danh mục thường xuyên, bắt sóng những cổ phiếu & sector tăng mạnh nhất trong uptrend thì sẽ không bỏ qua cơ hội này để chốt lời & đổi danh mục. Ở TTCK Việt Nam, ngành ngân hàng & chứng khoán tăng mạnh thường là pháo lệnh đầu tiên để bắt đầu 1 con sóng. Sau đó, ngành Bất động sản xây dựng sẽ lên tiếng. Trong uptrend, ngành này không ngán bất cứ ngành nào & luôn là hàng hot đối với nhiều NĐT. Cuối cùng, ngành năng lượng & các cổ phiếu penny lỡm, dễ làm giá sẽ bắt đầu điên loạn, sexy cởi trần liên tục. Đây cũng là chỉ báo cho thấy TTCK sắp đến đỉnh.
Trở lại với diễn biến TT, theo quan điểm người viết TTCK mới chỉ bắt đầu của 1 uptrend, nhưng sắp tới sẽ đi vào vùng kháng cự mạnh. Thị trường đã tăng liên tục 3 tuần & chưa có cú điều chỉnh nào lớn. Vì vậy chốt lời những cổ phiếu đã tăng mạnh ở vùng kháng cự& chờ cơ hội chuyển tàu sang những ngành & cổ phiếu mới phát tín hiệu là 1 chiến thuật cần cân nhắc. 1 nguyên tắc để tồn tại trong TTCk là “ đủ ăn là giông, không tham lam hoặc tiếc nuối dù cổ phiếu đó có thể tăng mạnh hơn”.
Đây là câu chuyện ngụ ngôn về ông lão bẫy gà làm lời kết :
“Có một ông lão bẫy gà tây.Ông ta vào rừng,chọn được một chỗ gà tây thường đi qua để kiếm ăn.Ông ta dựng một cái bẫy sập,một đầu dây nối với cái que ngáng giữa miệng bẫy,rồi ông ta rải dây cách đó 20m để khi gà vào bẫy ông ta kéo dây mạnh thì cái cây chống bẫy sẽ đổ và nó sẽ khép miệng bẫy lại, lúc đó gà vào trong sẽ không ra được.

Chuẩn bị xong,ông ta rải bắp từ ngoài miệng vào tới bên trong bẫy,rồi ông ta về chỗ chờ,đủng đỉnh hút điếu thuốc.Rồi đến chiều thì ở có một đàn gà tây 10 con xuất hiện,nó ăn theo bắp ông lão rải,rồi 1 con vào bẫy ông ta chưa giật dây vì mong sẽ có thêm con nữa vào 2 con vào ông ta vẫn không giật mà hi vọng thêm con nữa vào cứ như vậy đến con thứ 9 vào bẫy ông ta vẫn không giật dây,còn con thứ 10 nó cứ đứng ở giữa miệng bẫy,con thứ 9 ăn hết hạt bắp nó đi ra ông ta nghĩ vừa nãy 9 con không giật thì giờ 8 con giật làm gì,ông ta lại chờ nhưng rồi con thứ 8 chui ra ông ta không giật vì nghĩ lúc nãy 8 con không giật giờ 7 con giật làm gì,ông ta hồi hộp chờ và hi vọng cho đến con cuối cùng nó ra .

Kết cục ông ta không bắt được con nào cả.”

Thứ Hai, 24 tháng 12, 2012

Ngụ ngôn chứng khoán

Có một ông lão bẫy gà tây.Ông ta vào rừng,chọn được một chỗ gà tây thường đi qua để kiếm ăn.Ông ta dựng một cái bẫy sập,một đầu dây nối với cái que ngáng giữa miệng bẫy,rồi ông ta rải dây cách đó 20m để khi gà vào bẫy ông ta kéo dây mạnh thì cái cây chống bẫy sẽ đổ và nó sẽ khép miệng bẫy lại, lúc đó gà vào trong sẽ không ra được.

Chuẩn bị xong,ông ta rải bắp từ ngoài miệng vào tới bên trong bẫy,rồi ông ta về chỗ chờ,đủng đỉnh hút điếu thuốc.Rồi đến chiều thì ở có một đàn gà tây 10 con xuất hiện,nó ăn theo bắp ông lão rải,rồi 1 con vào bẫy ông ta chưa giật dây vì mong sẽ có thêm con nữa vào 2 con vào ông ta vẫn không giật mà hi vọng thêm con nữa vào cứ như vậy đến con thứ 9 vào bẫy ông ta vẫn không giật dây,còn con thứ 10 nó cứ đứng ở giữa miệng bẫy,con thứ 9 ăn hết hạt bắp nó đi ra ông ta nghĩ vừa nãy 9 con không giật thì giờ 8 con giật làm gì,ông ta lại chờ nhưng rồi con thứ 8 chui ra ông ta không giật vì nghĩ lúc nãy 8 con không giật giờ 7 con giật làm gì,ông ta hồi hộp chờ và hi vọng cho đến con cuối cùng nó ra .

Kết cục ông ta không bắt được con nào cả.

Năm sau, sau mùa sinh nở gà nhiều vô kể. Ông lão lai mang chiếc bẫy cũ sang khu rừng mới có nhiều gà ta... Ông ta lại dựng một cái bẫy sập,một đầu dây nối với cái que ngáng giữa miệng bẫy, rồi ông ta rải dây cách đó 20m để khi gà vào bẫy ông ta kéo dây mạnh thì cái cây chống bẫy sẽ đổ và nó sẽ khép miệng bẫy lại, lúc đó gà vào trong sẽ không ra được.

Chuẩn bị xong,ông ta rải bắp từ ngoài miệng vào tới bên trong bẫy,rồi ông ta về chỗ chờ,đủng đỉnh hút điếu thuốc.Rồi đến chiều thì ở có một đàn gà ta 10 con xuất hiện,nó ăn theo bắp ông lão rải,rồi 1 con vào bẫy ông ta chưa giật dây vì mong sẽ có thêm con nữa vào 2 con vào ông ta vẫn không giật mà còn thêm con nữa và cứ như vậy đến con thứ 9 vào bẫy ông ta vẫn không giật dây,còn con thứ 10 nó cứ đứng ở giữa miệng bẫy,con thứ 9 ăn hết hạt bắp nó đi ra ông ta nghĩ vừa nãy 9 con không giật thì giờ 8 con giật làm gì,ông ta lại chờ nhưng rồi khi con thứ 8 chuẩn bị chui ra ông ta ông giật ngay...Cứ như thế ông ngày cang trở nên khấm khá !

Lời bàn: Sau nhiều lần bẫy gà, ông nhận thấy mua qua đáy, bán qua đỉnh là hay hơn cả...
(hàng chôm từ vietcurrency.vn)

[Chart] Kinh tế thế giới – 1 năm nhìn lại

 năm sau khủng hoảng, kinh tế thế giới năm 2012 đã có sự phục hồi dù còn rất yếu. Nhờ có Mario Draghi, Chủ tịch Ngân hàng Trung ương châu Âu ECB, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã có chút ánh sáng le lói cuối đường hầm. Quyết định mua lại trái phiếu chính phủ với số lượng vô hạn từ các quốc gia thành viên khu vực đồng euro (Euro zone - EZ) đang ngập trong khủng hoảng nợ công của Draghi được nhiều chuyên gia kinh tế ca ngợi như “khai hỏa khẩu thần công tấn công vào thị trường trái phiếu chính phủ - vấn đề cốt lõi cuộc khủng hoảng eurozone”. Nhờ đó, bond yield của các nước ngoại vi châu Âu đã giảm xuống (chart 1).
Nhưng tình hình của châu Âu lại trở nên tồi tệ hơn bởi tình trạng phân mảng tín dụng, dòng tiền gửi dịch chuyển dần sang các nước châu Âu có nền kinh tế tốt hơn. Tình trạng rút tiền gửi cũng buộc các ngân hàng phải chi trả nhiều hơn để giữ chân khách hàng, điều đó dẫn đến chi phí đi vay của các doanh nghiệp và người tiêu dùng cũng tăng cao hơn, ngăn cản những nỗ lực phục hồi kinh tế (chart 2).
Trong khi đó, kinh tế Mỹ đã có sự phục hồi tốt & mức tăng trưởng GDP đã vượt 5 năm trước khủng hoảng, điều mà các nền kinh tế lớn khác như Anh, Euro, Nhật chưa làm được (chart 3). Thị trường nhà đất ở Mỹ vẫn đóng băng, & tỉ lệ thất nghiệp đã giảm đáng kể. Tuy nhiên, số lượng người thất nghiệp dài hạn lại tăng mạnh (chart 4).
Hầu hết các quốc gia mới nổi có 1 năm ảm đạm khi tốc độ tăng trưởng GDP không ấn tượng (chart 5). TTCK Trung Quốc có 1 năm dài mò đáy, tuy nhiên giai đoạn cuối năm TTCK Trung Quốc đã có dấu hiệu hồi phục, PMI nước này đã leo lên trên 50 (chart 6). Trái ngược với sự downtrend của chứng khoán, vật giá ở TQ & các nước mới nổi có 1 uptrend kéo dài từ đầu năm, cùng với sự tăng giá của dầu và vàng (chart 7). Với quyết định duy trì lãi suất cho vay siêu thấp 0,75% ở khu vực đồng euro, dòng tiền đã đổ vào trái phiếu doanh nghiệp nhiều hơn. Nhưng đến khi kinh tế phục hồi và lãi suất tăng trở lại sẽ nảy sinh ra những vấn đề mới (chart 9).

Mặc cho sự ảm đạm của kinh tế thế giới, năm 2012 là 1 năm khá tốt đẹp đối với nhà đầu tư thế giới & cả ở Việt Nam, khi mà giá các sản phẩm tài chính như trái phiếu & cổ phiếu ở nhiều nước trên thế giới đều có 1 năm tăng giá (chart 8). Chỉ số Vnindex cũng tăng mạnh trong 5 tháng đầu năm, & 2 tuần tăng liên tiếp cuối năm giúp cho NĐT đón giáng sinh & tết vui vẻ.

Thứ Ba, 18 tháng 12, 2012

Tại sao các chuyên gia phân tích thường dự đoán corporate earning cao hơn thực tế?

Gerard Minack- Head of Global Developed Markets của Morgan Stanley vừa có 1 report về sự thất bại của các analyst trong việc dự đoán corporate earning. Theo đó, trong 27 năm dự đoán EPS của S&P 500 thì chỉ có 2 lần các chuyên gia phố Wall dự đoán thấp hơn earning thực tế, còn lại hầu hết họ đều quá lạc quan khi dự đoán earning.

Đây là comment của TS Giang Lê: “Cái systemic bias này có thể giải thích được là đa số earning forecast đều do sell side analysts thực hiện và sell side có incentive đưa ra đánh giá optimistic để khách hàng tăng đầu tư (sell side hưởng commission từ đầu tư của khách hàng)”.

Cụ thể hơn, các dự phóng public ra công chúng thường là của các sell side analysts ( topic nàyhttp://vfpress.vn/threads/buy-side-va-sell-side-tren-ttck.2918/ giúp bạn hiểu rõ hơn thế nào là sell side & buy side) . Họ thường có những dự phóng tốt và khuyến nghị mua hơn là bán bởi vì hầu hết các khách hàng& khách hàng tiềm năng của các sell side firm thường quan tâm đến việc mua con nào có lãi nhiều hơn là quan tâm đến việc cổ phiếu ABC đã overvalue. Hơn nữa, đưa ra khuyến nghị, dự phóng xấu về 1 cổ phiếu cụ thể nào đó sẽ làm các nhà đầu tư lớn đang nắm giữ cổ phiếu đó không hài lòng, ảnh hưởng đến việc bán các dịch vụ khác cho nhóm nhà đầu tư lớn này.

Ngoài ra, Sell side analyst còn chịu áp lực từ phía ban lãnh đạo doanh nghiệp khi dự phóng lợi nhuận thấp & ra khuyến nghị bán. Hầu hết các lãnh đạo doanh nghiệp nắm giữ 1 lượng lớn cổ phiếu doanh nghiệp mình. Nếu analyst nào viết báo cáo xấu, làm giá cổ phiếu họ nắm giữ sụt giảm, họ sẽ cắt đứt quan hệ với chuyên viên phân tích & công ty phân tích đó. Nỗi lo mất 1 khách hàng doanh nghiệp lớn khiến các công ty chứng khoán ít nhiều sẽ dự phóng tốt hơn về earning của doanh nghiệp. Đơn cử 1 ví dụ ở Việt Nam về 1 doanh nghiệp bất động sản lớn, chịu mọi phí tốn cho 1 nhóm các chuyên viên phân tích đi tham quan, nghỉ ngơi, bia bọt (kèm 1 số benefit khác nữa :D ) tại 1 dự án của họ để về viết phân tích. Nhưng trước khi công bố bài phân tích phải được bên doanh nghiệp duyệt trước. Ông analyst nào viết báo cáo trung thực rằng doanh nghiệp bất động sản kia đang xấu, dịch vụ kém, không có tiềm năng… thì viết xong rồi đốt uống chứ cũng không được cho phát hành, & lần sau có kèo mới doanh nghiệp kia cũng ko gọi ông analyst đó đi nữa.

Ở Việt Nam luật lệ về đạo đức nghề nghiệp chưa chặt chẽ khiến cho các báo cáo khuyến nghị của CTCK càng ít được tin tưởng hơn trong mắt nhà đầu tư, đặt biệt là các nhà đầu tư có kiến thức & kinh nghiệm. Trừ báo cáo của 1 vài công ty chứng khoán lớn đáng đọc, phần lớn các báo cáo của công ty chứng khoán nhỏ rất sơ sài & cẩu thả. Cá biệt còn có 1 số CTCK nhỏ viết báo cáo bằng cách copy tin tức trên các báo tài chính, diễn đàn & khuyến cáo thêm là “chúng tôi không chịu trách nhiệm về độ chính xác & hoàn chỉnh của thông tin”. Nhiều người còn trading theo chiến lược đi ngược lại với khuyến nghị của công ty chứng khoán, cứ nhiều CTCK khuyến nghị mua là họ sẽ bán :D

[hàng chôm] Xác định Trend của HNX index

Xác định thế nào là TREND luôn là vấn đề lớn nhất của Phân tích kỹ thuật và cũng là vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất.

Có nhiều phương pháp xác định trend nhưng cổ điển và đơn giản nhất chính là Phân tích peak n troughs theo Lý thuyết Dow (có thể tham khảo http://www.earnforex.com/forex-e-books/beginner-forex-trading/Peaks_and_Troughs_Pring.pdf).

Việc HNX vượt peak@13/11/2012 được coi là điều kiện cần để có một trend (chưa bàn tới timeframe), cần có điều kiện đủ nữa. Hay theo cách nói của trường phái tân cổ điển, HNX đã hình thành momentum cho một trend mới.

Nếu nhìn thuần túy theo trường phái cổ điển thì HNX cần có điều kiện đủ - hình thành troughs. Quá trình hình thành cái trough này sẽ quyết định trend mạnh hay yếu. Mạnh nhất chính là kéo thẳng 1 mạch vượt tiếp cái peak 56.5@17/10. Tiếp đến là tạo trough không thấp hơn peak 52-53 @ 13/11. Và cuối cùng, yếu nhất (có khả năng gãy gánh nhất) là tạo trough thấp hơn 52.

nguồn: thành viên GBK- VFpress.vn

[hàng chôm] ETF Market Vector Vietnam khoấy động thị trường

Lần thay đổi này, ETF do Vaneck quản lý không thêm mới mã nào, loại bỏ 3 mã là CTG,KLS,KBC. Thị trường đang giao dịch rất sôi động ở các mã khác đươc dự tính tăng tỉ trọng như PPC,PVS,STB,VCB. Hết tuần này, cả 2 ETFs sẽ kết thúc kỳ review. CTG sẽ trở thành mục tiêu của những người bắt dao rơi!

Trước đóSJS là mã bị loại khỏi danh mục của ETF do DB quản lý ( FTSE Vietnam Index ETF). Theo số liệu công bố tuần trước, giá trị SJS trong danh mục ETF này chiếm 1.56%, tương đương 74.7 tỷ VND. Với giá đóng cửa 19.200 VND, như vậy ETF này đang nắm hơn 3.8 triệu cổ phiếu SJS.

Thời gian gần đây, khối lượng giao dịch của SJS hàng ngày khá ít. Chỉ khoảng vài chục ngàn đến hơn trăm ngàn cổ phiếu.Nếu tính khối lượng trung bình 300k/ ngày thì ETF phải bán mất hơn 10 ngày mới xong. Thường xu hướng khi bị ETF loại sẽ giảm rất mạnh giai đoạn đầu, sau đó những ngày cuối do bị quá bán ( Oversold) nên sẽ có 1 đoạn hồi. Rồi sau đó thì có trường hợp rơi tiếp, có trường hợp hồi phục được vì có cơ bản tốt.
SJS bị FTSE loại nhưng lại được Vaneck tăng tỉ trọng, vì vậy không những giảm giá mà còn tăng mạnh.
Bên cạnh đó, sau động thái bị loại khỏi ETF, KLS cũng đã công bố mua cổ phiếu quỹ 10 triệu cổ. Chúng ta hãy chờ xem, liệu giá KLS có diễn biến hấp dẫn trong game này hay không? 

Cơ hội cho những mã khác:
Theo quy tắc review của ETF, sau khi bán số lượng SJS này, số tiền thu về sẽ được mua đều vào các mã khác theo tỉ lệ có sẵn trong danh mục. Đứng đầu danh mục lại là 2 mã có thanh khoản thấp, vốn hóa cao là MSN và VIC. Vì vậy, xác suất cao là khi các mã này được mua, giá sẽ tăng. Các mã các thanh khoản thấp hơn sẽ khó có cơ hội đột phá!


Nguồn: thành viên vinase, diễn đàn vfpress.vn

Thứ Hai, 17 tháng 12, 2012

Covered warrant là gì?

Thị trường chứng khoán (TTCK) sẽ có thêm sản phẩm mới là chứng quyền (Covered warrant). Sản phẩm này được Sở giao dịch chứng khoán TPHCM (HSX) giới thiệu đến các thành viên thị trường ngày 13/12 tại TPHCM. Vì vậy, xin giới thiệu vài nét về Covered warrant đến bạn đọc.

Nếu bạn search từ khoá “chứng quyền” hay “Covered warrant” sẽ ra nhiều kết quả bằng tiếng việt, tuy nhiên, 1 số bài viết có thể khiến bạn hiểu sai & không phân biệt được thế nào là Warrant, Covered Warrant và Option. Ví dụ bài viết này trên Gafin: http://gafin.vn/2012121310285631p0c31/hsx-gioi-thieu-san-pham-moi-chung-quyen-covered-warrant.htm
“Chứng quyền là công cụ tài chính cho phép người nắm giữ có quyền (nhưng không phải là nghĩa vụ) mua hoặc bán một tài sản cơ sở với giá được định trước (gọi là giá thực hiện) tại hoặc trước ngày đáo hạn” – như vậy thì không khác gì 2 sản phẩm tương tự là Warrant và Option.
Hơn nữa, nếu dịch covered warrant là chứng quyền thì dịch warrant là gì? Theo tôi, warrant dịch là chứng quyền thì đúng hơn, đây là định nghĩa về warrant trên Saga: http://www.saga.vn/dictview.aspx?id=1476

Tôi tóm tắt sự khác nhau của warrant và covered warrant như sau:

Warrant của cổ phiếu thường được công ty bán kèm với cổ phiếu ưu đãi để tăng tính hấp dẫn của cổ phiếu ưu đãi. Ví dụ công ty ABC phát hành 100 Warrant giá 10 đồng trong 3 năm. Giả sử năm sau giá thị trường ABC tăng lên 12 đồng, người nắm Warrant thực hiện quyền, công ty phải phát hành thêm 100 cổ phiếu ra trả, và sẽ làm pha loãng cổ phiếu.
Covered warrant mang tính chất đầu cơ nhiều hơn. Chữ “ Covered” ở đây là vì tổ chức tài chính XYZ đã mua 1 lượng nhất định cổ phiếu ABC, muốn phát hành 1 loại chứng khoán mới dựa trên cái underlying asset là lô cổ phiếu ABC để cover lại tiền mua ABC & tạo thêm sản phẩm cho ba con cô bác đánh bạc. Ở 1 số sàn CK lớn như London Stock Exchange, CW được listed và trading như 1 loại cổ phiếu bình thường nên rất linh hoạt và tính thanh khoản cao. 1 điểm thuận lợi của CW nữa là với 1 loại tài sản cơ sở là cổ phiếu ABC, bạn có thể cá cược nó lên hay xuống ở nhiều khoảng thời gian & nhiều mức giá khác nhau. Không biết đến lúc áp dụng ở VN sẽ ra sao, nhưng với sản phẩm này, nếu bạn dự đoán cp ABC xuống giá trong ngắn hạn bạn có thể mua put warrant để kiếm lời (cool hé :dance2: ). Hơn nữa, nếu CW được UBCK cho trading rộng rãi thì sẽ có nhiều tổ chức tài chính tung ra các sản phẩm CW của nhiều loại cổ phiếu khác nhau, tha hồ cho các trader siêu sóng ngắn hạn & trung hạn thử tài dự đoán chứng khoán trong ngắn hạn của mình. Nếu dự đoán đúng, thực hiện quyền thì dân giang hồ gọi là ăn lồi mõm :D, nếu dự đoán sai thì bạn chỉ mất phí mua quyền vài %. Trong khi đó nếu mua cổ phiếu, giá giảm mà không cắt lỗ bị mất vài chục phần trăm thì sót lắm.

Đặc điểm của CW và option lại rất giống nhau, các tính chất của CW được đề cập ở trên đều giống với option. Điểm khác nhau cơ bản nhất của CW và Option là Option thường ngắn hạn hơn CW, và ở nhiều TTCK, CW là sản phẩm bình dân & dể trade hơn đối với nhà đầu tư cá nhân.

Đây là những điểm cơ bản nhất về loại sản phẩm “sắp” được phát triển ở TTCK Việt Nam. Còn rất nhiều cái hay và khá technical về loại sản phẩm này, ví dụ như lợi nhuận, rủi ro, cách định giá, chiến thuật sử dụng để sinh lời. Hẹn ngày ra đời của sản phẩm này tôi sẽ viết chi tiết hơn về Covered Warrant.

Chủ Nhật, 16 tháng 12, 2012

[PTKT] Loại chart & indicator nào phổ biến nhất thế giới?


Trong cuốn sách New Frontiers in Technical Analysis, Paul Ciana đã khảo sát cách sử dụng chart PTKT của  nhiều nhà đầu tư khác nhau từ năm 2005-2010, 44% đến từ Châu Mỹ, 38% từ Châu Âu, 12% từ châu Á, 2% từ Châu Phi. Kết quả như sau:

Ở Việt Nam rất phổ biến đồ thị nến Nhật Bản & rất ít dùng dạng Line, nhưng trên thế giới lại thích dùng chart Line (gần ½ TAer thế giới dùng Line) & Bar hơn, trong khi đó rất ít người dùng chart Log.
Tiếp theo là đồ thị intraday và đồ thị Historical, số lượng dùng đồ thị historical gấp đôi intraday.
Tuy nhiên, nếu nhìn vào sự thay đổi qua các năm thì càng ngày người ta càng thích dùng chart intraday hơn và càng ít dùng chart Historical. Ở Việt Nam, với trở ngại t+3 cũng như dịch vụ cung cấp chart intraday real time chưa phổ biến nên số lượng nhà đầu tư dùng chart intraday rất thấp. 

Chuyển qua việc sử dụng indi cầy tơ, được yêu thích nhất tất nhiên là MACD & RSI chiếm tới hơn 75% trong cuộc khảo sát. Điều đáng ngạc nhiên là 2 chỉ báo rất phổ biến và được nhiều cao thủ TA áp dụng là Bollinger Bands và Stochastics lại được rất ít người sử dụng, chỉ chiếm vài %. Các indicator nổi tiếng khác như  Directional movement index (DMI), Ichimoku (GOC), Bloomberg’s Volume at Time (VAT) nằm trong top 7 indicator được sử dụng nhiều nhất.
 Cuối cùng, nếu chi việc sử dụng chỉ báo kĩ thuật theo từng khu vực địa lý, có thể thấy người châu Á yêu chỉ báo Ichi mò Ku đến chừng nào, trong 100 người dùng thì 54.5% là người châu Á.




Thứ Hai, 10 tháng 12, 2012

Lương & năng suất lao động giảm mạnh trên toàn cầu

Theo báo cáo thu nhập bình quân trên thế giới của tổ chức Lao động quốc tế (International Labour Organization), từ 1999 đến 2007 năng suất lao động đã tăng mạnh & bỏ xa tăng trưởng thu nhập thực tế của người lao động ở rất nhiều quốc gia. Ở Mỹ & Nhật Bản, năng suất lao động vẫn tăng khoảng 2%, trong khi đó real wages gần như không tăng, vật giá leo thang đã bào mòn sức mua của người lao động. Trước khủng hoảng năm 2008, năng suất lao động ở Đức vẫn tăng nhưng tăng trưởng real wages lại âm.

Trong khi đó ở các quốc gia ngoại biên khu vực EuroZone như Rumani, Cộng Hoà Lavia, Hungary, Séc trước 2008 có tốc độ tăng real wages cao hơn cả năng suất lao động. Lương tăng, chi tiêu nhiều, năng suất theo không kịp khiến cho các nền kinh tế này phải trả 1 cái giá đắt. Từ 2008-2011, các nền kinh tế này đều có năng suất lao động & tiền lương thực tế tăng trưởng âm. Các nền kinh tế khác năng suất lao động cũng giảm mạnh trong giai đoạn này.

Nhìn chung, ở hầu hết các quốc gia, benefit của người lao động đều giảm mạnh vì ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế. Ở Việt Nam tình hình cũng không khá hơn, lương thưởng của người lao động không những không tăng mà còn bị giảm mạnh để chia sẻ với khó khăn của doanh nghiệp, trong khi đó giá cả sản phẩm thiết yếu vẫn tăng từng ngày.

50 sự thật về đầu tư(p2)


26. Nhà đầu tư nhỏ lẻ không nên đầu tư vào cổ phiếu IPO, bạn có quá ít thông tin về chúng. Ngược lại, người bán cổ phiếu IPO có nhiều thông tin hơn bạn rất nhiều, hãy suy nghĩ về điều đó. Cá nhân người viết cũng có 1 nguyên tắc là ko chơi cổ phiếu mới lên sàn, vì mình biết quá ít thông tin, cũng như tính nết, ngưỡng cản, hổ trợ, số cổ phiếu free float… thôi thì chọn con nào tính nết hiền lành, quen thuộc với mình chinh chiến cho an tâm, để các case khó cho dân chuyên nghiệp.
27. Khi người môi giới  nói với bạn chỉ cần thông thạo đồ thị, đường MA, vài mô hình cơ bản (vai đít vai, 2 đáy, kháng cự, hỗ trợ…) là có thể “chơi” chứng khoán kiếm lời, hãy bỏ đi & tìm người khác đáng tin hơn!
28. Cụm từ “suy thoái kép” được tìm kiếm khoảng 10,8 triệu lần vào năm 2010 và 2011, theo Google. Nhưng điều đó đã không xuất hiện. Tuy nhiên, hầu như không có đề cập nào về “khủng hoảng tài chính” ở năm 2006 và 2007. Nhưng điều đó đã xảy ra.
29. Lãi suất thực của trái phiếu chính phủ Mỹ 20 năm là âm, và rất nhiều nhà đầu tư đang nhồi nhét tiền vào những trái phiếu này. Mọi tính toán đều không thắng được sự sợ hãi.
30. Đa số các nhà đầu tư đến giờ vẫn không biết được rằng các cố vấn tài chính thường không coi trọng lợi ích của bạn, họ quan tâm đến tiền phí quản lý bạn đóng cho họ hơn.
31. Quỹ ETF là phát minh tài chính có ích nhất trong lịch sử. Nhàm chán, nhưng tốt.
32. Những nhà đầu tư xuất sắc nhất thế giới thường có thiên hướng giỏi tâm lí học hơn là tài chính.
33. Diễn biến thị trường trong ngắn hạn thường là những thay đổi ngẫu nhiên, khó đoán trước được. Cố gắng giải thích những chuyện xảy ra trên thị trường trong ngắn hạn cũng giống như cố gắng giải thích kết quả xổ số.
34. Với đa số mọi người, tìm cách để tiết kiệm nhiều tiền hơn nữa thường quan trọng hơn việc tìm một vụ đầu tư hấp dẫn.
35. Nếu bạn vay ngân hàng để đầu tư vào một cái gì đấy, dừng lại đi. Bạn sẽ kiếm được tài sản nào có suất sinh lời 30% một năm đâu (20% trả cho ngân hàng + 10% required return)
36. Một lượng lớn cổ phiếu quỹ công ty mua lại là để bù trừ với lượng cổ phiếu thưởng phát hành cho ban giám đốc. Các giám đốc doanh nghiệp vẫn coi việc mua lại cổ phiếu là “trả lại tiền cho cổ đông.”
37. Khả năng một công ty nổi tiếng đang nợ đầm đìa và giấu nợ bằng cách phù phép báo cáo tài chính là rất cao.
38. Hai mươi năm nữa, danh sách S&P 500 sẽ không có gì giống với ngày hôm nay. Các công ty sẽ biến mất và bị thay thế.
39. Mười hai năm trước, General Motors đang là tập đoàn lớn nhất nhì thế giới, và Apple chỉ là một trò cười. Những cú chuyển mình như vậy sẽ xảy ra trong một thập kỉ tới đây, nhưng không ai biết nó sẽ xảy ra cho công ty nào.
40. Sẽ tốt hơn nếu người ta đừng quan tâm thái quá đến Quốc hội, Ngân hàng nhà nước và ngài Thủ Tướng, thay vào đó tập trung vào việc quản lý tài chính của bản thân.
41. Với rất nhiều người, một ngôi nhà là một khoản nợ được giấu đằng sau mác tài sản an toàn.
42. Tổng thống có ít ảnh hưởng đến nền kinh tế hơn những gì người ta nghĩ.
43. Hãy tăng mức tiền dành cho việc nghỉ hưu của bạn lên gấp đôi. Bây giờ bạn đã có con số gần với thực tế hơn.
44. Cuộc suy thoái kinh tế tiếp khác hoàn toàn so với suy thoái vừa xảy ra.
45. Hãy nhớ những gì Buffett nói về tiến trình phát triển: “Người xuất hiện đầu tiên là kẻ sáng tạo, sau đó là những kẻ chuyên bắt chước, và cuối cùng là kẻ ngốc.”
46. Và nhớ những gì Mark Twain nói về sự thật: “Một lời nói dối có thể đi được nửa vòng trái đất trước khi chân tướng sự thật được phát hiện ra”.
47. Và những gì Marty Whitman nói về thông tin: “Các biến số quan trọng thường không nhiều hơn ba hay bốn. Những thứ còn lại đều không quan trọng".
48. Một vụ thâu tóm doanh nghiệp càng lớn thì khả năng phi vụ đó thất bại càng cao. CEO rất thích việc xây dựng đế chế độc quyền bằng cách trả giá quá mức để mua lại các công ty khác.
49. Các vụ đầu tư lãi ít rủi ro cao nhiều hơn gấp 10 lần những vụ đầu tư rủi ro ít lãi cao.
50. Những công ty nhàm chán nhất – bán kem đánh răng, thực phẩm hay bóng đèn – có thể là những nơi để đầu tư dài hơi tuyệt vời nhất. Những công ty mang đầy tính sáng tạo lại đôi lúc có thể là những thứ tệ nhất. Điều này quá đúng cho TTCK Việt Nam, năm 2009 ai đầu tư vào Điện Quang ĐQC thì 300% 1 năm cũng không phải là mơ mộng. Trong khi đó 1 công ty được đánh giá cao về sự sáng tạo trước kia là FPT vẫn đang chơi trò mò đáy.


nguồn: fool.com, vcamp

Chủ Nhật, 9 tháng 12, 2012

50 sự thật về đầu tư

1. Hãy tham lam khi người khác sợ hãi- câu nói rất nổi tiếng của WB ai cũng biết, nhưng nói thì dễ hơn làm rất nhiều. Có mấy ai dám tham lam khi người khác sợ hãi?
2. 1 công ty tốt không có nghĩa lcổ phiếu công ty đó là tốt để đầu tư
3. Năm nào TT cũng có ít nhất 1 con sóng lớn, và nếu tính 10 năm thì ít nhất sẽ có 1 con sóng khủng long. Vì vậy chỉ cần canh me ăn 1 con sóng 1 năm là đủ, không cần lướt lát nhiều.
4. Nhiều chuyên gia CK thường xuyên dự báo sai, nhưng vẫn kiếm được rất nhiều tiền phí tư vấn từ nhà đầu tư.
5. Erik Falkenstein (equity portfolio manager tại Deephaven Capital Management, tác giả sách Finding alpha) nói: Trong tennis chuyên nghiệp, vận động viên rất ít khi mắc lỗi, họ sẽ ăn được 80% số điểm có thể ăn được, trong khi đó, tại giải nghiệp dư, vđv sẽ bỏ lỡ 80% cơ hội ngon ăn. Tương tự như vậy với đấu vật, cờ vua và đầu tư: người mới tham gia nên tập trung vào việc tránh sai lầm, hãy để những con sóng dữ cho dân chuyên nghiệp chinh phục.
6. Có khoảng 10.000 nhà quản lí tài chính chuyên nghiệp, nhưng số người thành công dựa vào may mắn chỉ đếm trên đầu ngón tay.
7. Những nhà đầu tư vĩ đại trên thế giới cũng không thể có được suất sinh lời vài trăm phần trăm hàng năm. Với nhiều người, đầu tư chứng khoán lời 30% là bình thường, chẳng có gì là cao thủ. Nhưng nếu bạn duy trì ổn định suất sinh lời 30% đến hết đời thì cũng không nghèo hơn Warren Buffett bao nhiêu.
8. Trong các cuộc suy thoái, khi Ngân hàng nhà nước họp, hoặc khi có bầu cử, người ta bỗng trở nên cực kì chắc chắn về những thứ mà vốn họ chẳng biết tí gì.
9. Bạn càng cảm thấy chắc chắn về một phi vụ đầu tư nào đó, bạn càng dễ thất bại và thua lỗ.
10. Đầu tư vào những cổ phiếu penny cũng giống như bạn đang châm lửa đốt tiền của mình.
11. Không một người nào trên thế giới này có thể đoán chính xác thị trường sẽ biến động như thế nào trong ngắn hạn.
12. Các nhà phân tích hay kể với bạn về những sai lầm của anh ấy là những người mà bạn nên nghe theo. Hãy tránh những người không nói tí gì về sai lầm của mình.
13. Bạn không hiểu bảng cân đối kế toán của một ngân hàng lớn? Những nhà điều hành và kế toán của công ty đó cũng không hiểu đâu.
14. Sẽ có khoảng bảy đến mười cuộc suy thoái trong 50 năm sắp tới. Đừng tỏ ra quá bất ngờ khi nó xảy ra.
15. Ba mươi năm trước, bản tin tài chính chỉ kéo dài một tiếng trên TV. Bây giờ nó kéo dài khoảng 18 tiếng. Lượng tin tức hữu ích không tăng lên, trong khi quá nhiều những tin làm lãng phí thời gian của người xem.
16. Phi vụ có lợi nhuận cao nhất của Warren Buffett xảy ra khi thị trường rất kém cạnh tranh. Khó ai có thể lập lại kỉ lục đầu tư của ông.
17. Đa số những thứ người ta dạy về đầu tư ở trường là lý thuyết vô dụng. Hầu hết các giáo sư đều không phải người giàu có nhờ đầu tư.
18. Một người xuất hiện trên TV càng nhiều, dự đoán của người đó càng ít có khả năng trở thành hiện thực (nhà tâm lý học Phil Tetlock của trường U.C Berkeley đã có nghiên cứu về đề tài này).
19. Không nên tin bất kì chuyên gia nào xuất hiện trên CNBC nhiều hơn hai lần một tuần.
20. Thị trường không quan tâm bạn trả bao nhiêu tiền cho một cổ phiếu. Bạn nghĩ giá đó mới là giá hợp lí, nhưng chưa chắc Mr Market đã nghĩ vậy.
21. Phần lớn tin tức thị trường hàng ngày sẽ không giúp ích được gì cho việc đầu tư của bạn, nếu không muốn nói là có hại.
22. Các nhà đầu tư chuyên nghiệp có nguồn thông tin tốt hơn và hệ thống đầu tư tốt hơn bạn rất nhiều. Bạn sẽ không bao giờ thắng được họ trong đầu tư ngắn hạn. Đừng cố thử.
23. Số năm kinh nghiệm có một Fund manager không đảm bảo thành công trong TTCK. Họ có thể thất bại trong suốt sự nghiệp đầu tư. Kinh nghiệm không đồng nghĩa với chiến thắng.
24. Chi phí giao dịch trên thị trường tài chính càng ngày càng giảm, và đó là tin xấu với nhà đầu tư, bởi nó khiến nhà đầu tư trading thường xuyên hơn. Khi chi phí giao dịch đắt đỏ, người ta sẽ suy nghĩ thật kĩ trước khi mua bán.
25. Đầu tư chuyên nghiệp là ngành nghề khó thành công nhất thế giới, nhưng lại quá dễ để tham gia và chả cần bất kì bằng cấp nào cả. Điều đó đã tạo gia một thế hệ “chuyên gia” hoàn toàn không hiểu họ đang làm gì. 

Thứ Năm, 6 tháng 12, 2012

[CDS] Một cách hiểu đơn giản về Credit Default Swaps

CDS được phát minh ra năm 1997 bởi Blythe Sally Jess Masters, 1 nhà kinh tế học & là đại bàng về trading commodities của ngân hàng JP Morgan. Tuy tuổi đời còn non trẻ nhưng CDS chiếm khoảng ½ trading volume của thị trường Derivative thế giới. Trước khi có vụ khủng hoảng nợ dưới chuẩn ở Mỹ thì CDS đã rất phổ biến ở Mỹ, người Mỹ trading CDS nhưng cũng ko biết rõ bản chất công cụ này là gì (người VN không biết cũng ko có gì lạ J ), chỉ biết CDS do AIG đứng ra bảo kê thì mọi người cứ yên tâm mà chiến, không phải lo vỡ nợ. Sau sự sụp đổ của AIG, giới tài chính mới đào sâu mổ xẻ mạng lưới CDS chằng chịt và nhận ra rằng nó là công cụ có rủi ro cao nhất trọng các loại derivatives.
Hình vẽ sau đây minh hoạ rõ nét cho khái niệm CDS (chôm từ CFOViet)

Giả sử bạn đã đầu tư 10 tỉ vào trái phiếu của HAG, TT nhà đất đóng băng khiến bạn lo sợ HAG sẽ vỡ nợ. Vậy giờ làm gì? Cách đơn giản nhất là bán mớ Bond đó đi là hết rủi ro. Cách thứ 2 trí tuệ hơn là tìm cách hedging mới Bond đó bằng cách mua CDS. Hiểu nôn na mua CDS là mua bảo hiểm cho 1 loại tài sản nào đó. Ví dụ công ty bảo hiểm AIG đồng ý bán cho bạn ” bảo hiểm “ cho khả năng vỡ nợ của HAG, 1 ăn 100 chẳng hạn. Chỉ là nôn na giống bảo hiểm thôi, vì đúng bản chất thì khi bạn đến công ty Bảo Hiểm, bạn chỉ mua được bảo hiểm cho tính mạng, tài sản của bạn, chứ không ai bán cho bạn bảo hiểm tính mạng hay bảo hiểm xe máy Babét nhè của bác Minhphc nào đó được. Lỡ bạn mua được bảo hiểm cho tính mạng của tôi, hôm sau ra đường chận giết tôi để lấy tiền từ bảo hiểm thì chết tôi. :D

Xét về bản chất, CDS giống cá độ hơn. Ví dụ ở 1 trường đua ngựa, có hai tay cờ bạc cá cược, A với B cá với nhau về performance của con ngựa V. A cá với B là nội trong 3 năm tới, thế nào con ngựa V cũng bị ngủm củ tẻo, không đua được nữa. B đồng ý cá với A, 1 ăn 1000. Mỗi tuần, A đặt cược $5 để cá là con ngựa V sẽ bị thương, bị chết, hay vì lý do gì đó không đua được. Nếu quả nhiên vậy, B trả A $5000. Nếu không, tuần sau A lại cá tiếp, lại đặt tiếp $5.
Bây giờ, hãy tưởng tượng bạn là một người không rành về các con ngựa đua. Nhưng bạn quen tay cá cược B. Bạn nhớ là, năm ngoái, anh B chịu cá cược 1 ăn 1000. Tức là trả $5, nếu con ngựa V lăn ra chết, thì B sẽ trả $5000. Nhưng năm nay, anh B chỉ chịu cá cược 1 ăn 100 thôi. Tức là phải trả tới $50, thì nếu con ngựa V chết, B mới chịu trả $5000.
Tức là, giá cá cược với con ngựa V đã tăng, từ 0.1%, lên 1%. Nếu mỗi 0.01% là một “basis point,” thì ta có thể nói, giá cá cược đối với việc con ngựa V có thể lăn ra chết, đã tăng từ 10 basis points, lên 100 basis points.
Giá basis points phản ảnh tỷ lệ nghịch sự tin tưởng của giới cá cược, vào sức khỏe của con V.
Không cần biết gì về con ngựa V, chỉ cần biết giá cá cược với anh B, bạn sẽ biết (gián tiếp) tình trạng sức khỏe của con ngựa.
Nếu hôm qua có tin con V bị nhiễm trùng, chắc hẳn là hôm nay B sẽ không nhận cá 1 ăn 1000 (tức là với giá 10 basis points) mà có thể nhận 1 ăn 100 thôi (giá lên tới 100 basis points). Giá basis point tăng.
Nhưng ngày mai lại có tin con V khỏe lên rồi, thì B lại nhận cá cược 1 ăn 1000 trở lại, tức là với giá 10 basis points. Giá basis point giảm.( Trích dẫn ví dụ của Vũ Quí Hạo Nhiên)

Như vậy, khi CDS càng giảm thì chứng tỏ sức khoẻ của tài sản mình đem ra cá cược đã tốt lên & khả năng vỡ nợ thấp xuống, tốt tốt!
Trở lại với ví dụ về HAG, chúng ta mua bond, cộng với mua 1 CDS bảo hiểm, thuật ngữ nhà nghề gọi là protection buyers. AIG nhận tiền phí & đồng ý trả premium nếu HAG vỡ nợ thật, gọi là Protection seller. Giả sử HAG vỡ nợ, chúng ta mất 10 tỉ nhưng nhờ hedging bằng CDS nên ăn lại được tiền đền bù của AIG để giới hạn thua lỗ.

Investment bank và banks thông thường là NGƯỜI MUA lớn nhất của thị trường CDS,để hedging rủi ro cho khác khoản tiền cho vay, đảm bảo hệ số an toàn vốn...bank chiếm khoản 40% lượng mua CDS trên thế giới hiện nay. Sau đó đến các công ty chứng khoán, quỹ đầu tư(hedge fund mua CDS nhiều thứ 2, mua 15% lượng CDS), doanh nghiệp, cả chính phủ mua CDS để hedging danh mục trái phiếu doanh nghiệp của mình.

Phía người bán, các công ty bảo hiểm nhân thọ & phi nhân thọ lớn như AIG đóng vai trò vô cùng quan trọng trong thì trường CDS vì họ chính là người bán CDS cho bà con cô bác nhảy vô mua, ai mua bao nhiêu anh bán bấy nhiêu :) Họ là người tạo ra các sản phẩm CDS, tính coi thằng bond này tỉ lệ bảo hiểm bao nhiêu, thằng bond kia tỉ lệ bao nhiêu, tiền thu về đầu tư vào đâu để phòng ngừa rủi ro. Chiến lược chơi và sản phẩm chơi của thị trường CDS rất phong phú. Ví dụ như gom trái phiếu của 5 công ty, 3 tốt 2 xấu vào 1 rổ, bán sản phẩm CDS chung, bà con cứ vào mua, chỉ cần 1 trong 5 công ty này vỡ nợ bà con sẽ ăn 100 tiền, xui xui 2 trong 5 công ty vỡ nợ bà con ăn 200 tiền. Nói ngon vậy chứ đứng ở phía nhà phát hành, tính ra tỉ lệ vỡ nợ của các sản phẩm CDS này, premium bao nhiêu để có lãi & vẫn đảm bảo an toàn là khó gấp trăm ngàn lần định giá doanh nghiệp hay phân tích chứng khoán. :)
Kinh tế Mỹ khuyến khích tiêu dùng, nhà nhà đi vay, người người đi vay để tiêu dùng, từ mua xe, mua nhà đến đi học, kinh doanh đều dùng tiền vay. Khi nền kinh tế ổn định, làm ăn ngon lành thì các con nợ sớm muộn gì cũng trả nợ, chẳng ai xù nợ. Vì vậy các công ty bảo hiểm như AIG tha hồ chứng khoán hoá các khoản vay dưới chuẩn, bán chán chê lại trộn trộn các loại nợ rồi bán bảo hiểm nhặng xị cho các khoản nợ trên. Với 1$ tài sản thật của HAG (ví dụ), có đến 31 người bỏ 1$ ra mua bảo hiểm vỡ nợ cho tài sản đó. Nếu HAG làm ăn ngon lành thì AIG chỉ ngồi đếm tiền phí bảo hiểm. Nhưng nếu HAG vỡ nợ thật thì tỉ lệ cược là 1 ăn 100, AIG phải trả 100*31= 3100$ cho 1$ tài sản HAG. Nếu tính 1 lô 1 tỉ đô thì tiền đâu ra AIG trả? Buộc phải bán tháo tài sản, cổ phiếu ra lấy tiền trả. Và quả tuyết nguyên tử CDS lăn này đã giáng 1 đòn chí tử vào nền kinh tế Mỹ cũng như niềm tự hào về Kĩ nghệ tài chính của US.
rên đây chỉ là 1 cách hiểu đơn giản về CDS, nếu bạn đọc muốn tìm hiểu sâu hơn hãy tìm đọc bài viết này của Tiến Sĩ Lê Hồng Giang http://kinhtetaichinh.blogspot.com/2008/10/cdo-cds-primer.html
Nguồn: blog Giangle, Vũ Quí Hạo Nhiên

Thứ Tư, 5 tháng 12, 2012

Muốn trading giỏi, hãy là 1 tay chơi Xì Tố (Poker) cừ khôi

Nhiều nhân vật lừng danh về đầu tư & đầu cơ trên thế giới rất thích chơi Poker, 1 trong số đó là nhà đầu tư huyền thoại Warren Buffett. Câu nói nổi tiếng của Warren Buffett trong lĩnh vực cờ bạc này là: "Sau 20 phút chơi Poker mà bạn ko thấy 1 thằng khờ nào thì chính bạn là thằng khờ đó".

Nhiều người nghĩ rằng cờ gian bạc lận, thắng bài không do hên thì cũng do mánh mung, thua bài thì do xui, hoặc bị nhà cái lừa. Steven Levitt, tác giả của “kinh tế học hài hước”, đã nghiên cứu về mối liên hệ giữa kĩ năng chơi bài của các con bạc và thành công của họ. Kết quả nghiên cứu cho thấy các tay chơi lão luyện kiếm trung bình 30% vốn bỏ ra, trong khi những con bạc bình thường lỗ trung bình 15%. Xì Tố có nhiều điểm tương đồng với trading về tâm lý, khả năng quản lý tiền & khả năng quản trị rủi ro. Thậm chí, Xì Tố còn khó hơn trading ở chỗ: khi bạn trading sai bạn có thể cut loss để hạn chế thua lỗ, còn trong Xì Tố, nhiều khi cầm bài mạnh, chia tới con thứ 4, thứ 5 mới biết mình đã thua, lúc đó cắt lỗ cũng mất hết rồi.

Không biết ở Việt Nam có phòng tự doanh hay quỹ đầu tư nào phỏng vấn tuyển dụng bằng kĩ năng chơi Poker không? Nhưng hình thức này không có gì là lạ ở Wall Street. Nhiều trading firm ở Wall Street tin rằng người chơi trading giỏi hoàn toàn có thể áp dụng các kĩ năng đó vào việc trading các derivatives có rủi ro cao & trading size lớn. Đại bàng của Toro Trading, Danon Robinson cho rằng: “nếu bạn chơi Poker giỏi, bạn sẽ trading rất giỏi. Còn nếu bạn không có hứng thú với trò này là 1 tín hiệu báo động, điều này cũng tệ như việc không đọc Wall Street Journal hàng ngày”.

Vì vậy, nếu việc trading của bạn đang bế tắc vì thua lỗ nhiều quá, nhân lúc TTCK đang kém hấp dẫn, hãy chuyển hướng sang học chơi Xì Tố xem có cải thiện được performance không nhé.

Thứ Ba, 4 tháng 12, 2012

[Trading life] 48 giờ làm việc của 1 trader tập sự trên phố Wall

Trader là 1 nghề mệt mỏi căng thẳng, đòi hỏi bạn phải học hỏi không ngừng. Trader sau khi close các position của 1 ngày dài giao dịch còn phải vận lộn với các bài research khó nuốt, các báo cáo & phân tích hàng ngày, dự đoán hướng đi của market ngày hôm sau… và chỉ thực sự được thư giãn chút ít khi TT đóng cửa cuối ngày thứ 6.
Dòng hồi kí của người bạn này miêu tả hoạt động của anh ta từ 6:00 sáng tới 6:00 tối ở một ngân hàng đầu tư lớn ởTokyo. Đây là những sự kiện có thật, được đăng trên Businessinsider gần đây, xin được dịch lại toàn bộ hồi kí này phục vụ bạn đọc Vfpress.

6h sáng: Chuông báo thức vang lên, tôi thực sự muốn ngủ nướng thêm tí nữa nhưng với sức mạnh ý chí cao độ, tôi bật dậy khỏi giường vì tôi cần phải gấy ấn tượng với sếp và đồng nghiệp

6:30: Tôi dùng bữa sáng với trà đóng chai và bánh gạo mua ở tạp hoá. Tôi nghe bản tin kinh tế trên trang Nikkei Shimbun với chương trình (tương tự như Nhật báo Wall Street) trên đường đi làm

6:50: Tôi là một trong những người đi làm sớm nhất công ty. Tôi thở phào nhẹ nhõm khi biết chắc rằng sếp tôi chưa tới văn phòng vì thỉnh thoảng ông ấy cũng đến văn phòng khá sớm
Tôi đã tự hứa với bản thân mình rằng tôi sẽ chứng tỏ cho sếp tôi thấy tôi là một lính mới chăm chỉ như thế nào. Tôi vội vàng bắt đầu công việc tìm kiếm dữ liệu (chẳng hạn như báo cáo nghiên cứu, tóm tắt về thị trường thế giới, dữ liệu tỉ giá mới nhất…) rồi đặt lên bàn của mỗi Trader ở đó trong khi luôn tự hỏi rằng liệu có bao nhiêu thằng thực sự đọc những tài liệu của tôi làm ra

8:00 sáng: Bàn giao dịch của tôi gần như đã đầy kín. Tôi vừa phải đọc nhanh các bài báo trên các website tài chính và Bloomberg, chuẩn bị đầy đủ thông tin cần thiết trong khi vừa phải nói chuyện với mọi người cho tới cuối ngày (Lưu ý là có rất nhiều trader tập sự không thể truy cập website của Bloomberg vì phí của nó rất đắt - $1500 USD/ tháng). Tôi cố gắng dự đoán tin tức sẽ ảnh hưởng lên thị trường trong ngày như thế nào
8:15 sáng: Tất cả Trader chứng khoán đã tới bàn của họ. Fixed income trading nằm trên 1 tầng khác. Mọi người tập trung lại cuộc họp
Trader chuyên trách về từng mảng riêng biệt hoặc là theo từng loại giao dịch: vanila equity, quyền chọn, Portfolio trading, agency trading…đưa ra cái nhìn tổng quan về diễn biến của ngày hôm trước và những dự đoán của họ cho các phiên giao dịch tiếp theo
Những điều đã xảy ra qua đêm tại các thị trường Mỹ / châu Âu cũng là một điểm thảo luận tự nhiên vì thị trường có xu hướng nối đuôi nhau
Đôi khi tôi cố gắng hết sức để hiểu tất cả các thuật ngữ hoặc các khái niệm đặc biệt của các ý kiến ​​của họ, nhưng nhìn chung, tôi có thể nắm bắt những gì họ đang nói. Mọi người đều nói bằng tiếng Anh tại cuộc họp nhưng nhiều khi họ lại dùng tiếng Nhật để trả lời

9:00 sáng: Thị trường chứng khoán Nhật mở cửa. Sau khi được sự cho phép, sáng nay tôi ngồi cạnh một Trader về Equity option. Tôi chắc chắn rằng mình phải giữ im lặng tuyệt đối vì đây là khoảng thời gian bận rộn nhất của họ
Anh ta mở 6 màn hình, trong đó Excel trên 2 màn hình, mở Bloomberg (biều đồ) trên 2 màn hình khác, Reuter mở 1 màn hình còn lại là Microsoft Outlook. Số liệu trong file Excel update từng giây 1. Tôi để ý thấy những người trader đang nhíu mày và tự hỏi tại sao lại thế

10:00 sáng: Tôi chờ cho tới khi anh ta ít bận rộn hơn và hỏi anh ta về những gì đã xảy ra. Rõ ràng Gamma của anh ta đã không được hedge như đã tính - ngay sau khi thị trường mở cửa gamma tăng lên một mức độ cao hơn so với anh ta đã tính trước, có nghĩa là có nhiều rủi ro hơn anh ta kì vọng.
Tôi gật đầu biết ơn vì tôi biết rằng một số người khác sẽ không buồn trả lời câu hỏi của tôi.

11:30 trưa: Hôm nay là một ngày biến động trên thị trường, thậm chí các trader không cảm thấy thoải mái khi rời khỏi bàn làm việc của họ để ăn trưa. Tôi phải tới McDonald’s để mua hambugar cho họ. Tôi thấy ổn cả khi làm những việc như vậy. Sau tất cả, tôi thấy dù sao mình vẫn tốt hơn những thực tập viên bên Liar’s Poker

12:30 trưa:Giờ, mắt và cổ của tôi cảm thấy mỏi vì phải nhìn vào 6 màn hình 1 lúc trong khi phải ngồi ngay mé bàn. Dù gì thì diễn biến thị trườngđang chậm lại, nên tôi quay lại bàn của mình, đọc tin tức và tổng hợp lại thông tin thị trường giữa ngày

Sếp phân công tôi làm trong bộ phận phân tích cổ phiếu nhưng tôi biết tôi không thể nào nhận được bất cứ công việc nghiêm túc nào để làm cho tới buổi chiều muộn


1:30 chiều: Tôi đoán là mình đã làm phiền người Trader này cả ngày rồi vì thế tôi cố gắng tìm ai đó khác mà có thể cho tôi ngồi bên cạnh để học hỏi thêm. Tôi sang ngồi cạnh 1 người trader cổ phiếu đang chỉ tập trung mải miết vào cổ phiếu bán lẻ. Thật không may, ông là một người hướng nội, và thật khó để làm cho anh ta phải nói nhiều. Tôi quan sát thấy rằng anh ta vừa thực hiện 2 trade cho phần còn lại của ngày hôm nay

3:00 chiều: Thị trường cổ phiếu Nhật đóng cửa phiên giao dịch. Dĩ nhiên, sau giờ giao dịch, rất nhiều việc cần phải làm xong. Người Trader đứng lên đi vào phòng uống café và tôi cũng tranh thủ đi theo học lóm
Tôi cảm ơn anh ta 1 lần nữa vì đã đễ cho tôi ngồi lại bên cạnh và tôi cố gắng bình luận quan điểm của mình cũng như ý kiến của anh ấy về những gì đã diễn ra trên sàn ngày hôm nay. Anh ta nói rằng tôi là một thực tập viên có kiến thức và anh ta khá ấn tượng với tôi. Tôi tự nhủ trong đầu “yes, mình đã tiến gần hơn để được nhận vào làm rồi đấy”

4:00 chiều: tôi đi uống café với 1 anh mới vào làm mà chúng tôi đã sắp xếp trước đó, anh ta cũng không lớn hơn tôi là bao nhiêu.
Là một trader hạng bét, không phải ai cũng sẵn sàng đi uống café với bạn – và thỉnh thoảng bạn sẽ học được nhiều điều hay ho từ người khác hơn là từ đại bàng của mình.
Tôi hỏi anh ta một số thông tin: về người Trader nào dễ tiếp cận? Chính xác làm sao đễ có thể nói chuyện với họ? Chuyện gì sẽ xảy ra nếu họ đưa ra quyết định sai lầm? Chúng tôi còn bàn luận xem cô gái nào xinh xắn trong công ty

5:00 chiều: Sếp dẫn tôi tới 1 phòng họp nhỏ nơi mà tôi phải dự cuộc họp kéo dài tầm 10 phút hàng tuần đễ kiểm tra xem tôi đã học được nhiều chưa, tôi cảm thấy hứng thú với phần nào nhất? Tôi có câu hỏi nào không? Ông ấy lặp lại rằng sự cạnh tranh vô cùng khắc nghiệt, tôi phải thực sự nỗ lực làm việc để gây ấn tượng với mọi người rằng tôi muốn thật sự được nhận vào làm ở đây

5:30 chiều: Tôi bắt đầu làm việc với nhóm dự án phân tích cổ phiếu 1 lần nữa. Bằng cách tải dữ liệu (cả PTCB lẫn phân tích kỹ thuât) trên trang Blomberg sang file Excel hàng ngàn cổ phiếu. Tôi phải tính toán và chia chúng thành nhóm cổ phiếu mua dài hạn và cái nào là trading ngắn hạn. Đây chỉ là một trong số rất nhiều dự án tôi đang làm

7:00 tối: Mọi người bắt đầu ra về. Tôi đi 1 vòng sàn giao dịch, cố gắng tìm ra 1 người nào đó không vội vã trở về nhà để hỏi thăm 1 ngày làm việc của họ như thế nào
Thỉnh thoảng có 1 số người lúc đó cảm thấy dễ chịu và không có khó khăn gì khi bắt chuyện với họ

7:30 tối: tôi nhận 1 email với đường link tới 1 bản báo cáo kinh tế dài 50 trang từ đội nghiên cứu. Tôi phải dừng lại mọi chuyện để đọc lướt qua bản báo cáo đó

8:00 tối: Hầu hết mọi người đã rời khỏi văn phòng, sao sếp tôi vẫn còn ở đây
8:30 tối: Cuối cùng đại bàng của tôi cũng về nhà (Phù!) Tôi cố gắng đợi ít nhất là 15 phút nữa sau khi sếp đi để chứng tỏ là không phãi sếp mới về mà tôi cũng ra về theo. Mặc dù là không được thực hiện các giao dịch như ở ngân hàng đầu tư, nhưng bạn cũng không muốn rời khỏi văn phòng trước sếp mình, đặc biệt là một thực tập sinh

9:00 tối: Tôi đi ăn tối với 1 người bạn và bạn bè cô ấy. Khi tôi đến, hầu hết đã ăn xong nhưng ít nhất tôi cũng kịp tới để chào họ

11:00 tối: Về tới nhà, tôi tính sẽ đi ngủ sau 30 phút nữa nhưng sau khi kiểm tra mail, tôi phải thức tới giữa đêm và phải gắng gượng khi nghĩ về ngày mai thật khó khăn để thức dậy sớm đi làm. Sau đó tôi nghĩ về những người bạn của mình cũng đang thực tập ở ngân hàng đầu tư vẫn còn phải ở lại công ty rồi cảm thấy mình vẫn tốt hơn họ

NGÀY THỨ 2

5:40 sáng: Thức dậy. Tôi phải báo thức sớm hơn vì ngay hôm qua tôi đã gặp khó khăn trong việc hoàn thành công việc đúng giờ. Tôi đập đập vào đầu mình để tỉnh táo

6:30 sáng: Tôi đến công ty…chỉ có duy nhất một người ở đó. Hmm, có phải tôi làm việc quá chăm chỉ không? Tôi tự nói với bản thân rằng thật là tuyệt nếu dù chỉ 1 ngày tôi được làm việc như 1 nhân viên “full-time” thật sự, dù chỉ là 1 trading hạng bét. Sau đó tôi bắt đầu copy những dữ liệu nghiên cứu cần được xuất ra sau đó

7:00 sáng: Tôi đã không nhận ra máy photocopy bị kẹt đã 15 phút, tôi phải dùng tới 3 máy thay vì 2 như thường lệ

8:00 sáng: Trước khi tới cuộc họp của những người retail Trader, tôi phải đến 1 cuộc họp nhỏ hơn của những người agency trader, toàn người Nhật (agency trader’s meeting). Những người này có phụ trách thực hiện những giao dịch do các tổ chức lớn như quỹ tương hỗ yêu cầu

Họ chủ yếu nói là về tin tức và diễn biến thị trường ở nước ngoài, nhưng họ cũng nói về cách đánh trận của ngày hôm trước, và về một bản báo cáo nghiên cứu mà công ty chúng tôi xuất ra như thế nào mà có nhiều lệnh chất trần cho 1 cổ phiếu. Cuộc họp kéo dài khoảng 10 phút.

9:00 sáng: Thị trường cổ phiếu Nhật mở cửa. Những tiếng đồng hồ đầu tiên, tôi ngồi cạnh đội Agency Trader, họ thực sự là rất khác so với proprietary trader vì mọi quyết định đều phải thông qua khách hàng – người trader chỉ có quyền quyết định là chia nhỏ lệnh thành những giao dịch nhỏ và thực hiện chúng khi nào

Tôi ngồi cạnh 1 người Trader làm việc trong này cũng lâu, người ấy có khả năng thực hiện giao dịch trong khi vừa nhìn màn hình vừa nói chuyện cùng lúc với tôi

Tôi cầu nguyện rằng anh ta sẽ không gây ra bất cứ sai sót nào trong khi vừa làm vừa nói chuyện với tôi. Thật may mắn, anh ta không có hội chứng ngón tay béo. Anh ấy có 4 màn hình, 1 là để submit lệnh và những chi tiết lệnh khác, 2 là biểu đồ của Bloomberg, 1 dùng đọc mail. Tôi có thể hỏi hàng tá câu hỏi với người này, nhiều hơn thường lệ

11:00 trưa: Thị trường đóng phiên giao dịch để nghỉ trưa. Tôi đi ăn cùng với những người Agency , họ rãnh rỗi hơn nhưng người Trader khác vì họ không phải làm quá nhiều phân tích

Một nữa câu chuyện chúng tôi xoay quanh các giao dịch, phần còn lại thì bàn về người Nhật nổi tiếng. Kiến thức về những người nổi tiếng giúp tôi thắt chặt quan hệ với họ. Điều này có lẽ làm tăng cơ hội vào đây làm việc không? Sau đó tôi nhận ra rằng việc thắt chặt mối quan hệ và được yêu mến là khá quan trọng để được nhận vào làm

Một lưu ý: Đây là một điều quan trọng và thường bị bỏ qua. Nếu muốn được chấp nhận, mọi người phải yêu mến bạn, đặc biệt là thực tập sinh. Ngay cả việc đi phỏng vấn cũng như vậy

12:30: Tôi ngồi yên cho tới khi phiên giao dịch đóng cửa lúc 3:00 chiều bởi vì những người Trader dường như không thích bị làm phiền. Gần về cuối ngày, tôi cảm thấy chán và mệt mỏi nhưng tôi ráng nghĩ ra những câu hỏi mới cho họ

3:30 chiều: Trước đó tôi có hẹn café với 1 anh bên Sale Trader nhưng anh ấy đã hủy vài giây trước. Tôi nên từ bỏ việc cố gắng nói chuyện với anh ta

4:00 chiều: Đại bàng của Prop Trading đang có cuộc họp với những Trader thì bất ngờ ổng gọi tôi và 1 bạn thực tập nữa vào phòng họp. Ông ta muốn chúng tôi tính toán phần hoa hồng trading và tôi phải thu thập thông tin cần thiết để làm việc đó

Tôi rất ngạc nhiên khi thấy khoảng chênh lệnh lớn khi mà ngân hàng đầu tư không hề theo dõi cẩn thận hoa hồng kinh doanh của mình. Nhưng sau đó, tôi nhận ra rằng thậm chí đến những quỹ tài chính lớn nhất còn gặp rất nhiều vấn đề mà bạn không thể tưởng tượng nổi

Tôi nghĩ về việc làm thế nào có được 1 dự án phân tích kinh doanh lớn như thế và một dự án nghiên cứu cổ phiếu, công việc càu nhàu và những thứ linh tinh khác mà tôi phải làm nhưng cùng lúc đó tôi không thể từ chối và nói không với các yêu cầu. Người đàn ông này là Tổng giám đốc vì thế tôi cần gây ấn tượng với ông ấy. Thật may, những bạn thực tập khác tuyên bố xin lỗi vì không thể làm được

4:30 chiều: Nghĩ giữa buổi, tôi bước xuống lầu và chắc chắn rằng không có người nào tôi biết ở đó, sau đó tôi ăn 1 miếng sandwich trong khi xoa bóp cổ và mắt. Tôi không muốn làm cho bất cứ ai cảm thấy căng thẳng vì mình

5:00 chiều: Tôi dùng 1 tiếng đồng hồ để phân loại ra 1 vài VBA Excel để làm cho dữ liệu của tổ chức tiến hành 1 cách tự động trong bảng tính phân tích của mình. Sau 1 vài lần thử nghiệm và sai sót, cuối cùng tôi cũng đã làm được

Người thực tập viên kia thì bị hút vào file Excel và đang gặp rắc rối với bảng phân tích của mình vì thế anh ta tới làm phiền tôi với những câu hỏi của mình. Tôi tự hỏi sao 1 người học cao học lại biết về Excel ít hơn cả tôi nhỉ

7:30 tối: tôi ăn ramen. Chẳng cần biết nó có dinh dưỡng hay rẻ không, tôi vẫn thích ăn
8:00 tối: tối thấy thật sự mệt, thay vì tiếp tục làm việc dự án của mình, tôi chỉ đọc hàng tấn bài viết tài chính. Chẳng ai them quan tâm tôi làm gì đâu mà
8:30 tối: Một nữa nhân viên vẫn còn ở đây, hầu hết là junior. Họ đang làm gì vậy nhỉ? Tôi đi qua và nói chuyện với họ - Họ đang lên kế hoạch và phân tích các giao dịch cho ngày mới

Tôi có thể kết luận rằng nếu những con người này không phãi là người nghiện công việc. Họ có lẽ sẽ chẵng phải ở đây. Sau đó, nếu bạn kiếm được hay lỗ hàng triệu đô 1 ngày, thỉnh thoảng làm việc qua đêm có thể bạn sẽ không bao giờ cảm thấy thoải mái khi xa công việc

9:00 tối: Tôi về nhà, nấu mì với cá đóng hộp, rong biển và nước tương rồi ăn, vừa coi những video Nhật. Thật sự cũng khá thoải mái đó chứ. Rồi tôi đọc cuốn “ Future, Option, & các Derivatives khác" của John Hull.

11:00 tối: Tôi bò lên giường. Wow, bây giờ tôi sẽ được ngủ tới 7h
NGÀY THỨ 3

6:00 sáng: Thức dậy và như thường lệ

[Cuộc đời trading của các bạn có nét nào tương đồng với a bạn này không?]