Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

Tăng khả năng đậu CFA nhờ phân tích kết quả quá khứ


Triết lý gia nổi tiếng người Mỹ gốc Tây Ban Nha George Santayana nói một câu rất nổi tiếng: “Người không nhớ quá khứ chắc chắn sẽ tái phạm lỗi lầm” ("Those who cannot remember the past are condemned to repeat it"). Vì vậy, phân tích kết quả các kì thi CFA trước đây là 1 cách hay để tăng khả năng PASS trong kì thi sắp tới. Tại sao bạn không sử dụng thống kê sẳn có này để biết được điểm khác biệt giữa những người đậu & rớt là ở những môn học nào!

Level 1

Dựa vào kết quả kì thi CFA level 1 tháng 12/2012 (và cả tháng 6/2012), vấn đề lớn nhất của các Candidate vẫn là các môn Quantitative Methods, Derivatives, Economics, Fixed Income. Trừ Derivatives ra, các môn còn lại trong list trên đều có tỉ trọng khá cao. Vì vậy nếu bạn thấy không chắc ở các môn trên thì hãy dành thêm thời gian ôn tập lại. Quantitative Methods, Derivatives, Economics, Fixed Income là những kiến thức rất quan trọng & thường xuyên xuất hiện ở các level sau. Có thể vì lí do này mà CFA Institute test các môn này khó hơn nhằm tạo nền tảng cho các ứng viên học tiếp level 2 & 3. Khoảng cách giữa PASS & Band 10 đối với level 1 là 3-4%, tương đương với 8-11 câu đúng.

Level 2

Độ khó ở Level 2 có vẻ trải đều hơn level 1. FRA, Equity, Fixed Income là những môn khó & cũng có tỉ trọng cao nhất, quyết định đậu rớt của Level 2. Bên cạnh đó,  Derivatives, Economics and Quantitative Methods vẫn là các môn gây khó khăn nhất cho ứng viên. Đặc biệt chú ý đến môn Derivatives, đối với level 1 tỉ trọng môn này thấp nên không học chắc có thể đánh lụi không sao. Nhưng lên level 2 thì độ khó & tỉ trọng tăng lên nên cực kì nguy  hiểm. Tỉ lệ thí sinh dưới 50% môn Derivatives là cao nhất!

Level 3

Đối với level 3 thì khó nhằn nhất là phần thi viết essay buổi sáng, khi mà đến 96% thí sinh làm bài essay tồi hơn rất nhiều so với làm item set. Hơn nữa, những chiến binh sau khi lọt qua được 2 vòng thi khó khăn trước đó đã thể hiện được sự xuất sắc, sung mãn & quyết tâm cao độ để 1 đập ăn quan nên cạnh tranh rất khốc liệt. Ở Level 3 khoảng cách giữa đậu & rớt chỉ có 1.4%, rớt band 10 thì buồn hơn con chuồn chuồn.
Nhìn vào biểu đồ thì Derivatives & Fixed Income lại 1 lần nữa là những môn tỉ lệ rớt cao nhất. Song song với nó, Portfolio managerment (Individual & Institute) là 2 môn học mới & có tỉ lệ rớt cao ngang ngửa D & F. Vì vậy, ngoài việc ngoài việc ôn bài tập Fixed & Derivatives thật chắc, việc rèn luyện cách viết IPS cho Institutional & Individual investors  sẽ quyết định đậu rớt của level 3. 

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Học MBA hay CFA tốt hơn?


Sau khi ra trường, nên học tiếp MBA hay học CFA là 1 đề tài được tranh luận khá nảy lửa trong giới tài chính ở Việt Nam & cả nước ngoài. Học cái gì tốt hơn còn tuỳ thuộc vào background & mục tiêu nghề nghiệp của mỗi người. MBA cũng có 1 số chương trình tập trung hoàn toàn vào finance, nhưng nhìn chung MBA chú trọng hơn đến kiến thức chung về kinh doanh, quản trị. Trong khi đó CFA tập trung đào tạo kiến thức chuyên về phân tích tài chính, quản trị danh mục đầu tư. Vì vậy ứng viên CFA chủ yếu làm ở các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán & tư vấn đầu tư. Điểm khác biệt cơ bản giữa ôn thi CFA và theo đuổi một khóa học MBA chính là CFA cho phép thí sinh không cần đến lớp, vừa tự học vừa làm, còn với một khóa MBA ít nhất bạn phải dành một nửa buổi để đến lớp (với hình thức học bán thời gian) hoặc cả ngày (với hình thức học chính quy).
Nếu bạn đang phân vân nên học CFA hay MBA, hãy cân nhắc những yếu tố sau:
1/ Chi phí
Để thi lấy chứng chỉ CFA, thí sinh cần vượt qua ít nhất 3 vòng thi, và khoảng $2500 tiền đăng ký và tiền lệ phí cho 3 vòng nếu đăng ký sớm (Hiệp hội CFA quốc tế áp dụng quy định giảm chi phí cho những đăng ký sớm, và giá sẽ cao dần khi càng sát thời hạn thi). Tài liệu ôn thi được đã bao gồm trong chi phí đăng ký và thí sinh bắt buộc phải trả. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngoài tài liệu ôn thi, phần lớn thí sinh có nhu cầu tham gia các khóa học luyện thi, tài liệu tham khảo, và các phần mềm bổ trợ nữa. Như vậy thí sinh sẽ mất khoàng $4000-$5000 để vượt qua 3 vòng. Con số nầy tuy không nhỏ nhưng “mềm” hơn rất nhiều so với một khóa học MBA tại nước ngoài có giá dao động từ $30,000 đến trên $100,000 phụ thuộc vào trường cũng như chi phí sinh hoạt tại nơi bạn theo học.

2/ Thời gian
Để hoàn thành ba vòng thi CFA, thí sinh cần ít nhất từ 2 năm, do quy định của Hiệp hội CFA quốc tế về thời gian giữa các vòng thi, thí sinh có thể thi level 1 vào tháng 12, level 2 vào tháng 6 năm sau và level 3 một năm sau đó. Thời gian này sẽ dài hơn nếu thí sinh thi level 1 vào tháng 6, hoặc phải thi lại (theo thống kê từ Hiệp hội, tỉ lệ đỗ level 1 CFA trung bình 46%, 41% với level 2 và 49% với level 3). Ngoài ra thí sinh còn cần ít nhất 4 năm kinh nghiệm để và ký các cam kết về đạo đức nghề nghiệp để được chính thức nhận chứng chỉ. Trong khi đó trung bình khóa học MBA kéo dài từ 1 năm rưỡi đến 2 năm.

3/ Lương thưởng
Có lẽ điều mọi người quan tâm nhất là học cái nào thì đi làm sẽ được trả lương thưởng cao hơn. Để có thông tin đó, Business Insider đã khảo sát & thống  kê kết quả như sau:

Như bạn thấy, CFA charterholders thường kiếm được nhiều hơn người chỉ có MBA 1 khoảng tiền là 27,000$ mỗi năm, và nhiều hơn 13,000$ so với những người chỉ có MBA chuyên về tài chính.(có luôn cả 2 bằng thì bá đạo luôn, khỏi so sánh làm chi :D )

Tiến sĩ Giang Lê, cao thủ nhất đẳng về kinh tế học & tài chính ở Việt Nam cũng từng viết 1 note ngắn về CFA vs MBA. Tiến sĩ nhận xét: “Thực ra học gì ra làm cũng được, miễn là bạn có đầu óc và chịu khó. Nhưng có CFA sẽ dễ xin việc trong finance industry (investment banking) hơn MSF. Finance MBA ở giữa nhưng cũng tùy thuộc vào B-school bạn theo học. Nhưng MBA có advantage là có nhiều lựa chọn nghề nghiệp hơn CFA và MSF. Nếu có BA/BS ở nước ngoài thì chỉ cần CFA, có thể học song song với BA/BS, thì 22-23 tuổi đã có thể bắt đầu đi làm trong finance industry rồi. Nếu giỏi 27-28 tuổi có thể lên manager và lương bổng chắc chắn cao hơn những anh PhD/MS/MA + everything.”

Ý kiến cá nhân e: nếu bạn có học bổng du học MBA thì không phải suy nghĩ. Còn nếu bỏ tiền túi đi học (không phải ai cũng có điều kiện đi), khoảng thời gian du học sẽ rất tuyệt vời, bạn được học tập trong môi trường tốt, làm thêm đôi chút kiếm tiền đi du lịch, tận hưởng tuổi trẻ, tiếng Anh như gió. Nhưng khi đeo lon MBA về nước xin việc thì đúng là đời không như là mơ. Với TT tài chính cạnh tranh như hiện nay thì kinh nghiệm làm việc quan trọng hơn bằng cấp. Bạn phải chấp nhận thực tế là đeo lon MBA với kinh nghiệm bằng zero nếu làm tài chính đầu tư thì cũng phải bắt đầu công việc ở vị trí binh bét như 1 bạn mới tốt nghiệp đại học, mức lương khởi điểm cũng không được như kì vọng của 1 MBA (e tính mặc bằng chung, không tính các siêu sao nằm trong top của trường, tất nhiên sẽ được trải thảm đỏ). Trong khi đó học CFA có điểm lợi là vừa học vừa làm, nếu hên hên thi cử tốt đẹp thì chịu đau khổ 3 kì thi là xong chương trình, lại có kinh nghiệm làm việc & 1 ít vốn liếng tích luỹ sau 3 năm vừa làm vừa học. 1 điểm lớn mà CFA thua MBA đó là 2 năm kinh nghiệm sinh sống & học tập ở nước ngoài là vô cùng giá trị, nó thay đổi tư duy con người rất nhiều. Các bạn học MBA có 1 điểm chung là rất tự lập, thích nghi tốt & làm việc rất hiệu quả.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Goldman Sachs giải thích công thức tính ROE mà mọi CFA Test Taker cần phải biết


ROE (Return on Equity) là 1 concept cơ bản & thường được test trong các kì thi CFA level 1 & 2
1 cách tính đơn giản, ROE bẳng Net Income chia cho giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu (equity) của công ty. Tuy nhiên, nếu tính đơn thuần như vậy thì ROE không nói lên được nhiều điều về hoạt động & cấu trúc vốn của công ty.
Vì vậy chuyên viên phân tích cần tách chỉ số ROE thành nhiều yếu tố. 1 trong số đó là mô hình Dupont 5 yếu tố.
Goldman Sachs vừa giải thích công thức ROE 5 yếu tố trong 1 report gửi cho khách hàng của mình như sau:



Mô hình Dupont tách ROE thành 5 yếu tố sau:
1/ Operating margin: đây là tỉ số EBIT/Sale. Tỉ số này càng cao, khả năng sinh lợi của công ty càng cao.
2/ Asset turnover: tỉ số này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của công ty, cho biết 1 đồng đầu tư vào tài sản tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
3/ Chi phí lãi vay: tỉ số này so sánh lãi vay của công ty so với tổng tài sản. Tỉ số này không được sử dụng thường xuyên trong việc phân tích đòn cân nợ của công ty.
4/ Asset/Equity: tỉ số này đánh giá đòn cân nợ (leverage) của công ty. Tỉ số này cao nghĩa là công ty đã dùng nhiều nợ để tài trợ cho việc mua sắm tài sản.
5/ Thuế: yếu tố này để cho biết mức thuế suất hiệu dụng của công ty.
Như bạn thấy, tách ROE thành 5 yếu tố thế này sẽ cho người đọc biết nhiều thông tin hơn về hoạt động của công ty, không chỉ  dừng lại ở lợi nhuận và vốn chủ sở hữu.
Mô hình Dupont thường được test trong kì thi CFA, vì vậy các nhà đầu tư có ý định thi CFA nên biết công thức này.