Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Nên nắm giữ bao nhiêu cổ phiếu trong danh mục?

Dân đầu tư ai cũng biết nguyên tắc “ không nên bỏ tất cả trứng vào chung 1 giỏ”. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh đa dạng hóa danh mục sẽ giúp bạn hạn chế rủi ro mất tiền. Nhưng không phải ai cũng đồng ý với quan điểm trên. Triết lý của người giàu thứ 2 trong lịch sử thế giới (đã tính trượt giá lạm phát), ông vua thép Andrew Carnegie:” Hãy biết tập trung năng lượng, tâm trí và vốn liếng… Người đàn ông thông minh sẽ đặt mọi quả trứng anh ta có vào trong một chiếc giỏ và trông chừng nó.” Còn các nhà đầu tư lừng lẫy trên thế giới, như Buffett, Fisher, Graham…họ bỏ trứng vào bao nhiêu giỏ?

Hãy bắt đầu từ cách bỏ trứng của Ben Graham- người khai sinh ra trường phái đầu tư giá trị. Trong chương 5 của quyển “ Nhà đầu tư thông minh”, ông khuyên chúng ta nên đa dạng hóa danh mục 1 cách vừa phải, ít nhất 10 cổ phiếu & tối đa 30 cổ phiếu trong danh mục. Những công ty đầu tư vào cần phải lớn, nổi bậc & có tình hình tài chính ổn.
Năm 1952, Harry Markowitz ủng hộ quan điểm của Graham và cho rằng nếu chúng ta tập trung quá nhiều vốn vào vài mã cổ phiếu thì sẽ không hiệu quả & nhiều rủi ro. Không dừng lại ở đó, Ông còn mô hình hóa quá trình lựa chọn danh mục đầu tư  để cho thấy một cách chính xác làm thế nào nhà đầu tư có thể làm giảm độ lệch chuẩn của lợi nhuận danh mục cổ phiếu của mình bằng cách chọn các cổ phiếu không biến thiên cùng với nhau. Nghiên cứu này còn giúp Ông đoạt giải Nobel năm 1990.
Ngược lại với 2 đại cao thủ này,năm 1934 John Maynard Keynes cho rằng phương pháp đầu tư đúng đắn là bỏ 1 số tiền lớn vào 1 số ít doanh nghiệp mà chúng ta hiểu rõ về nó: “ sẽ là sai lầm nếu bạn cho rằng có thể hạn chế rủi ro bằng cách rải tiền vào quá nhiều doanh nghiệp mà bạn chẳng hiểu gì về nó, và chẳng có lí do nào để tự tin vào tương lai của doanh nghiệp đó.” Theo Keynes, tại 1 thời điểm mà đầu tư trên 3 cổ phiếu là quá nhiều. Tốt nhất nên gửi trọn niềm tin vào 1-3 cổ phiếu mà bạn tự tin nhất.
Trong thư gửi cổ đông Berkshire Hathaway năm 1991, Buffett ủng hộ quan điểm của Keynes và cho rằng thật sai lầm nếu dạy các nhà đầu tư phải đa dạng hóa để giảm thiểu rủi ro. Sự nguy hiểm của việc bỏ trứng vào quá nhiều giỏ đó là bạn không thể quan sát tất cả trứng của bạn trong nhiều giỏ được. Buffett đã học được từ Fisher rằng:” mua nhiều cổ phiếu mà không bỏ thời gian ra để hiểu cặn kẽ business của những doanh nghiệp đó còn rủi ro hơn nhiều so với danh mục tập trung”. Trong thư gửi cổ đông năm 1993, Ông tiếp tục ủng hộ danh mục tập trung vài cổ phiếu khi đưa ra quan điểm “nếu bạn là nhà đầu tư có hiểu biết, có thể hiểu được business và tìm được 5-10 công ty tốt với mức giá hợp lí có lợi thế cạnh tranh lâu dài, lúc này thuyết đa dạng hóa chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Trái lại nó còn làm giảm lợi nhuận của bạn.”2 cao thủ nhất đẳng Buffett và Charlie mỗi năm chỉ chọn 1 công ty để mua. Sau nhiều năm chinh chiến, đôi bạn già này thấy rằng trong cuộc đời đầu tư quá khó để có thể đưa ra hàng trăm quyết định thông minh sáng suốt. Vì vậy 2 Ông dành toàn bộ kinh nghiệm, thời gian & trí tuệ của mình lọc trong hàng trăm cổ phiếu tiềm năng, chỉ chọn 1 cổ phiếu ưng ý nhất để đầu tư.  
 Seth Klarman viết trong cuốn “Margin of safety” cũng trình bày quan điểm này của Buffett, nhà đầu tư hiểu thật nhiều về 1 cổ phiếu & tự tin nắm giữ nó sẽ tốt hơn là mua nhiều cổ phiếu & biết mỗi công ty 1 chút. Số lượng cổ phiếu trong danh mục mà Klarman khuyến nghị là từ 10-15 cổ phiếu.

Tóm lại, số lượng cổ phiếu tối ưu tại 1 thời điểm theo sự chỉ dạy của các đại cao thủ đầu tư trên thế giới như sau:
Ben Graham: 10-30 công ty lớn, có tiềm năng & tài chính tốt.
John Keynes : 2-3 cổ phiếu thôi, nhưng hiểu thật kĩ trước khi xuống tiền.
Warren Buffett: 5-10 cổ phiếu, hiểu về lợi thế cạnh tranh dài hạn của doanh nghiệp & mua với giá hợp lí.
Seth Klarman: 10-15 cổ phiếu, biết ít nhưng mà chất. Biết mỗi thứ 1 ít thì cũng như không, vì ai cũng chém gió được.
Cá nhân e thì danh mục chỉ gồm 1-2 cổ phiếu thôi, không phải vì e hiểu doanh nghiệp nên không đa dạng hóa, mà vì vốn bé quá, mua 1 phát tất tay, buy and pray cho nhanh, khỏi đa dạng hóa mất công đặt lệnh.

Còn theo các bạn, nếu có trong tay 1 tỉ đồng trở lên thì bạn sẽ nắm giữ bao nhiêu cổ phiếu?   

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Charlie Munger- phó tướng của Buffett

Charile Munger là 1 tên tuổi lớn xứng đáng nằm trong ngôi đền huyền thoại của các nhà đầu tư giá trị. Kể từ khi làm việc chung với W. Buffett từ năm 1959, Ông luôn là cánh tay phải đắc lực của WB, giúp WB bổ sung khuyết điểm rất nhiều & góp phần xây dựng đế chế Berkshire Hathaway hùng mạnh như ngày nay. Lão tướng Charlie Munger năm nay 89 tuổi, hiện là chủ tịch của tập đoàn tài chính Wesco và đồng thời là phó chủ tịch Berkshire Hathaway, với gia tài trị giá 1.2 tỉ USD (9/2013).
Dưới đây là chiến tích của cá nhân Charlie giai đoạn 1962-1975 (không có sự trợ giúp của Buffett)


Từ năm 1962-1975 Munger kiếm được trung bình 19.8% mỗi năm, trong khi đó chỉ số DJ chỉ tăng trung bình 4.9%. Năm 2002, Ông quản lý danh mục đầu tư của the Daily Journal trị giá 4.3 triệu đô, đến năm 2012 danh mục này đã tăng 19 lần (76.7 triệu $).

Munger sinh ở Omaha ngày 1/1/1924. Ông từng học toán ở University of Michigan & tốt nghiệp trường luật Harvard năm 1948. Sau đó Charile bắt đầu tập trung vào đầu tư. Giai đoạn đầu đời của Charile là 1 tấm bi kịch. Ông lập gia đình năm 21 tuổi (sớm quá, chắc bác sĩ bảo cưới). Cuộc hôn nhân chỉ kéo dài 8 năm & đổ vỡ, người vợ lấy hết gia tài của Ông. Charlie cùng cậu con trai 8 tuổi Teddy Munger rời khỏi nhà với 2 bàn tay trắng. 1 năm sau, Teddy qua đời vì căn bệnh ung thư, Charile sụp đổ vì mất tất cả. Không những vậy, 1 con mắt của ông bị hỏng vĩnh viễn. Năm 35 tuổi, Ông đi bước nữa, vài đến giờ Ông đã có  đứa con & 1 đàn cháu chắt đủ lập vài đội bóng. Năm 25 tuổi lương hàng năm của Ông là khoảng 30,000 Đô, còn hiện nay gia tài Ông đã hơn 1 tỉ USD. Năm 69 tuổi, Munger đã năm trong top 400 người giàu nhất thế giới.

Cũng giống như Buffett, Munger rất rộng rãi trong việc quyên góp, từ thiện bằng cả tiền mặt và cổ phiếu. Mặt dù bỏ nghề luật từ rất sớm nhưng Ông vẫn đóng góp số cổ phiếu trị giá 43.5 triệu USD cho khoa luật của trường Stardford để tạo điều kiện học tập tốt hơn cho sinh viên. Năm 2007, ông cũng quyên góp 3 triệu USD cho University of Michigan Law School.
    
Về triết lý đầu tư, Ông cũng đầu tư theo trường phái giá trị của Graham, tập trung vào các business undervalued và có economic moats. Một số câu nói nổi tiếng của Charile:
“Tất cả những nhà đầu tư thông minh là nhà đầu tư giá trị- kiếm được nhiều tiền hơn số tiền bạn đã trả. Bạn phải định giá được business để có thể định giá cổ phiếu”
“Mỗi ngày, hãy cố gắng trở nên sáng suốt hơn một chút so với lúc bạn mới ngủ dậy”
“ Trong cả cuộc đời, tôi chưa biết một ai thông minh mà lười đọc sách-không một ai! Bạn sẽ kinh ngạc nếu biết tôi & Buffett đọc nhiều như thế nào”
“Đam mê và tài năng bẩm sinh, điều gì quan trọng hơn? Mọi người ở Berkshire đều có một niềm đam mê đặc biệt với công việc của họ. Với tôi, đam mê quan trọng hơn sự thông minh.”
“ Đừng làm việc với người bạn không ngưỡng mộ & không muốn làm việc chung”
 “ mua 1 công ty tuyệt vời với mức giá hợp lý tốt hơn nhiều lần so với 1 công ty bình thường với mức giá tuyệt vời”


Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Thị trường có hiệu quả?

 Hầu hết các học thuyết tài chính hiện đại đều dựa trên giả định thị trường hiệu quả: thị trường đã phản ánh đầy đủ, chính xác & ngay lập tức tất cả các thông tin có thể có được vào giá chứng khoán. Tuy nhiên, Efficient market hypothesis (EMH) không được chấp nhận tuyệt đối. Từ ngày EHM được khai sinh, có rất nhiều nghiên cứu để ủng hộ và phản đối thuyết này.

Trong 1 bài viết về EMH trên Financial Time năm 2009, Thaler nhận xét rằng “ giá chứng khoán luôn đúng” và “ không có bữa ăn nào miễn phí”. Ngụ ý của Thaler rằng giá chứng khoán đã phản ánh mọi thông tin của thị trường, và rất có để các nhà đầu tư có thể đánh bại thị trường năm này qua năm khác. Ngoại trừ những nhà đầu tư đặc biệt siêu cấp như Buffett thì hầu hết đều thua thị trường nếu xét trong 1 thời gian dài.
Khái niệm bước đi ngẫu nhiên đã có từ đầu thế kỷ 20, nhưng đến năm 1970, Fama mới định nghĩa cụ thể & dễ hiểu về EMH. Ông đưa ra 3 khái niệm của thị trường hiệu quả: Dạng yếu, dạng khá mạnh & mạnh. EMH dạng yếu giả định rằng mọi thông tin quá khứ về giá & khối lượng đã phản ánh đầy đủ vào giá chứng khoán. Vì vậy nếu thị trường ở dạng hiệu quả yếu, phân tích kĩ thuật không thể kiếm lợi nhuận phi thường được. Dạng mạnh vừa giả định rằng mọi thông tin quá khứ và hiện tại đã phản ánh hết vào giá, vì vậy cả TA & FA đều không thể dùng để kiếm abnormal return được. Thị trường hiệu quả dạng mạnh giả định mọi thông tin quá khứ hiện tại, đã công bố hay chưa công bố, tin mật của đội lái…đều được phản ánh hết vào giá. Vì vậy ngay cả có tin nội dán trong công ty cũng không thể kiếm được lợi nhuận phi thường, vì chỉ vài giây là là mọi thông tin public lên VFpress cả.

Ý tưởng về EMH được ra đời ở đầu thế kỷ 20. Năm 1990, cầu thủ người Pháp tên Frank Ribery-à không phải, nhà toán học người Pháp tên Louis Bachelier nộp luận án Tiến sĩ với tựa đề “đầu cơ chân kinh” (The Theory of Speculation) và miêu tả rằng bước đi của thị trường là ngẫu nhiên. Ngay đoạn mở đầu, Ông viết: “ thông tin quá khứ, hiện tại, thậm chí cả tương lai đều phản ánh cả vào giá cổ phiếu, nhưng thường không thể hiện 1 mối liên hệ rõ ràng với sự biến động giá hàng ngày”. Sau đó,có  nhiều nghiên cứu thực nghiệm, thống kê để bảo vệ EHM (phần lớn các nghiên cứu thống kê thị trường chứng khoán nhằm vào dạng weak EHM). Rất nhiều thống kê cho rằng không thể dùng biến động giá quá khứ để dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai (kháng cự vững mấy mà có đội lái xịn là khoan thủng hết, gặp kháng cự, tin tưởng biểu đồ giá quá khư bán là mất hàng ráng chịu :D ). Năm 1965, Fama nghiên cứu và kết luận rằng biến động hằng ngày của giá cổ phiếu gần như chẳng liên quan gì đến nhau (zero positive correlation). Năm 1973, Malkiel dùng 1 thực nghiệm rất thuyết phục để chứng minh bước đi ngẫu nhiên của giá cổ phiếu & dìm hàng dân phân tích kĩ thuật (chartist). Ông giả định 1 cổ phiếu ABC giá 50$ & cho đám sinh viên gieo đồng xu. Nếu mặt xấp thì giá cổ phiếu ABC tăng 1$, mặt ngửa thì giảm 1$. Mỗi lần gieo, cơ hội giá cổ phiếu tăng giảm so với phiên trước là 50/50. Sau đó Ông thu thập data lại và vẽ chart theo đúng kết quả gieo đồng xu ngẫu nhiên cho 1 chuyên gia PTKT xem. Chartist này khuyên ông hãy mua cổ phiếu ABC ngay, cốc tay cầm rõ ràng, không mua nhanh tàu chạy mất. Sau khi Malkiel nói rằng Tao gieo xu vẽ chart chọc mày chơi thôi, chartist này rất tức giận.

Ngoài ra, nhiều nghiên cứu nhằm vào các Active manager để chứng minh rằng có cố mấy thì xác suất thắng thị trường cũng 50/50. Cowles (1933) phân tích hàng ngàn cổ phiếu được chọn bởi các chuyên gia từ năm 1928-1933 và cho thấy rằng khả năng chọn hàng chiến của các chuyên gia cũng hên xui. Năm 1967, Jensen cũng làm 1 phân tích định lượng hoành tráng, dùng danh mục của 115 mutual funds chạy hồi quy. Kết quả fund return sau khi trừ phí quản lí thì còn thấp hơn cả S&P 500. Thực nghiệm gần đay của VFpress gây được tiếng vang lớn đó là cuộc thi “ai kiếm tiền hơn học sinh lớp 2”, các cháu lớp 2 không biết cổ phiếu là gì vẫn đánh bại được thị trường (chẳng bù cho bố & các chú của cháu, học hành đánh đấm đủ thể loại vẫn lõm).
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nghiên cứu cho rằng thị trường không hiệu quả, ít nhất trong 1 số thời điểm nhất định nào đó. Tiêu biểu là nghiên cứu về “hiệu ứng tháng Giêng” của Kinney năm 1976: tháng Giêng thường lợi nhuận đầu tư cổ phiếu cao hơn các tháng khác. Hoặc “hiệu ứng ngày thứ Hai” của Gibbons năm 1981 cho thấy giá cổ phiếu thường giảm vào ngày thứ 2. (hôm qua thứ 2 VN-index cũng mất điểm).
(còn tiếp...)

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Cách đọc báo cáo tài chính trong 1 phút

Trong bài phỏng vấn năm 1993, khi được Adam Smith hỏi làm thể nào 1 nhà đầu tư nhỏ lẻ có thể tìm được cổ phiếu tốt, Warren Buffett trả lời:” hãy làm theo cách tôi đã làm từ 40 năm trước đây, đọc báo cáo tài chính của tất cả các doanh nghiệp niêm yết ở Mỹ. với 1 kho kiến thức khủng tăng theo thời gian đó sẽ giúp bạn đầu tư tốt” . Smith hỏi lại:” nhưng có đến 27 ngàn công ty?”. “Thì bắt đầu từ vần A”-Buffett trả lời.
Dĩ nhiên ngày nay tên tuổi của Buffett đã lừng lẫy & có rất nhiều doanh nghiệp tự tìm đến Ông để chia sẻ ý tưởng kinh doanh. Nhưng cách đây 50 năm thì Buffett cũng chỉ là 1 nhà đầu tư nhỏ lẻ như chúng ta và cũng phải lọ mọ đọc báo cáo tài chính  để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Ai cũng biết Buffett đọc rất nhiều.
Với công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, chúng ta có lợi thế hơn Buffett rất nhiều khi chỉ click chuột 1 cái là có ngay báo cáo để nghiên cứu. Số lượng doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam cũng không nhiều, vì vậy đọc hết báo cáo tài chính của tất cả doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, tôi & nhiều VFers khác còn phải lo cơm áo gạo tiền, chiếm trọn thời gian hàng ngay. Dù có đủ đam mê & chăm chỉ nhưng không phải ai cũng có điều kiện như Buffett để có thể ngồi đọc báo cáo tài chính 15h/ngày. Vì vậy tôi đọc lướt 1 báo cáo tài chính trong vài phút, cái nào tốt thì đánh dấu lại & tìm hiểu sâu. Báo nào nào nhìn vô đã thấy tệ thì không tốn thời gian nghiên cứu công ty đó nữa.
Xin phép bắt đầu từ báo cáo của L10 mà tôi lọ mọ đọc sáng nay. Bước tìm hiểu đầu tiên, tôi dựa hoàn toàn vào BCTC để phán. Rất có thể tôi phán sai, & bạn có nhiều thông tin hơn để tin tưởng vào tiềm năng dài hạn của L10, nhưng đây là cổ phiếu tôi loại ra khỏi danh sách theo dõi sau 1 phút đọc BCTC.  Có thể L10 có vài điểm tốt nào đó, nhưng nếu đặt túi tiền của mình vào đây thì khó kê gối ngủ ngon. Trong khi đó còn nhiều cổ phiếu khác có thể bỏ tiền vào & kê gối ngủ ngon dựa vào lợi thế cạnh tranh rõ ràng, biên lợi nhuận cao, không vay nợ (VNM, DHG…).




1 nguyên tắc cơ bản là Bad Balance Sheet= Bad business. 1 doanh nghiệp có Bad Balance Sheet thường lợi nhuận & các yếu tố khác biến động rất thất thường. Có thể bạn may mắn mua trúng đáy & năm sau doanh nghiệp có lợi nhuận khủng, nhưng liệu lợi nhuận có ổn định & duy trì trong thời gian dài được không? Tôi thì cẩn trọng & chú trọng vào sự ổn định hơn.
Nếu bạn không có nhiều thời gian, hãy  đọc báo cáo tài chính trong 5 phút mỗi ngày & loại những cổ phiếu không hấp dẫn ra khỏi danh mục. Sau 3 tháng, bạn sẽ có 1 danh mục vài chục cổ phiếu tốt để tự mình quyết định đầu tư.


Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Đầu tư chứng khoán: phân tích bao nhiêu là đủ?

Nếu nghề nghiệp của bạn là bác sĩ, kĩ sư, hoặc kế toán, càng đọc nhiều sách chuyên ngành, hiểu biết sâu rộng về kiến thức chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm làm nghề sẽ giúp tay nghề bạn càng ngày càng cao và càng khó bị tầng lớp trẻ soái ngôi. Nhưng làm đầu tư thì khác! Có lẽ không có ngành nghề nào mà ranh giới giữa chuyên gia & newbie lại mỏng manh như nghề đầu tư. Đầu tư thành công đòi hỏi 1 số tố chất  riêng & sự nhạy bén, không phải cứ cần cù, sống lâu bù thông minh là có thể thay thế được (theo @Shadow). Đẹp trai tài giỏi & cáo già như Ackman 1 phút sơ sẩy vẫn phải cắt lỗ 50% như các nhà đầu tư non tay mới vào nghề.
Nhiều nhà đầu tư thường bị lỗi tâm lí illusion of control (ảo tưởng về khả năng kiểm soát). Khi họ nghiên cứu rất kĩ một cổ phiếu trước khi mua, phân tích cơ bản, kĩ thuật, tin nội gián, biết tường tận đội lái nào sẽ đánh lên ở đâu, rung lắc mốc nào…, họ tin rằng hiểu biết của họ dư sức giúp họ kiểm soát được đường đi của cổ phiếu họ nắm giữ.(Cuối cùng bị đội lái úp sọtàlỗ nặng).  Ngược lại, 1 số nhà đầu tư khác lại không hề nghiên cứu tí gì về cổ phiếu của mình mua mà dựa hoàn toàn vào tư vấn của Broker hoặc mua cổ phiếu nóng theo các cao thủ phím cho. Các nhà đầu tư mới vào thị trường thường chơi kiểu này & phần lớn là lỗ nặng. E thuộc thành phần thích tích phân, phân tích kĩ càng, lọ mọ đọc báo cáo tài chính, nghiên cứu ngành, model DCF hoành tránh. Đến lúc model hoàn chỉnh, báo cổ phiếu ngon bổ rẻ, tính toán mua thì cổ phiếu chạy được vài chục % mất rồi, không còn rẻ nữa.
Nghiên cứu quá nhiều cũng không ổn, không nghiên cứu gì thì lỗ chắc. Vậy phải hiểu biết sâu tới đâu trước khi nhấn nút mua? Rất may có cuốn Margin of Safety của Seth Klarman đã giúp e giải đáp thắc mắc này. Theo sách viết thì dù có nghiên cứu kĩ đến đâu thì cũng có 1 số thông tin quan trọng các nhà đầu tư thông thường sẽ không biết được, vì vậy nhà đầu tư cần phải học kĩ năng ra quyết định dựa trên những gì mình hiểu biết về công ty đó. Dù bạn có biết tất tần tật về công ty cũng không chắc mua vào đã có lãi. Tìm kiếm thông tin để đầu tư cũng tuân theo nguyên tắc 80/20: 80% thông tin cần thiết mà bạn có thể kiếm được thường đến từ 20% thời gian tìm kiếm. Hơn nữa, các thông tin về ngành, số liệu vĩ mô biến động liên tục, khiến bạn phải liên tục cập nhật tin tức. Nếu ai cũng biết những thông tin như nhau thì bạn sẽ không còn lợi thế về thông tin nữa. Vì vậy, các nhà đầu tư thành công thường không chờ đợi đến lúc hiểu biết hoàn hảo về doanh nghiệp mới ra quyết định đầu tư. Họ được đánh giá cao nhờ sự nhạy bén & quyết đoán của mình khi đi những nước cờ có nhiều rủi ro. Thời gian chờ đợi thu thập đầy đủ thông tin có thể khiến các nhà đầu  mất cơ hội mua cổ phiếu giá thấy và biên an toàn không còn nữa.
Thực tế, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thu thập càng nhiều thông tin càng khiến bạn tự tin quá mức, chứ không tăng độ chính xác lên được. Sự tự tin quá mức rất nguy hiểm trong đầu tư. Vì vậy, chỉ cần bạn trả lời được 8 câu hỏi sau trước khi đầu tư là coi như đã hoàn thành được 80% quá trình phân tích trước khi quyết định đầu tư:
1/ Mô hình kinh doanh của công ty có dễ hiểu và dễ điều hành không?
2/ Công ty có tăng trưởng ổn định về doanh thu và EPS trong 5-10 năm qua không? (sự ổn định quan trọng hơn tốc độ tăng trưởng)
3/ Công ty sẽ làm ăn ổn và có lợi nhuận tốt hơn trong 5-10 năm tới không? (dự đoán nhu cầu sản phẩm & dịch vụ của doanh nghiệp trong tương lai)
4/ Công ty sử dụng lợi nhuận giữ lại như thế nào?
5/ Công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững không? (sức mạnh giá, lợi nhuận biên, dẫn đầu ngành, rào cản gia nhập…)
6/ Ban lãnh đạo điều hành doanh nghiệp tốt như thế nào? (phân bổ vốn, ROE, corporate governance, so sánh với đối thủ cạnh tranh)
7/ Công ty có đòi hỏi phải đầu tư capex nhiều đều đặn mỗi năm để tăng trưởng không?
8/ Công ty có tạo ra nhiều tiền & tốn ít chi phí không?

Phần lớn checklist này cũng giống với cách chọn công ty tuyệt vời và tránh công ty ăn hại của Buffett.

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Warren Buffett trúng đậm với deal Mars Candy

Warren Buffett và Berkshire Hathaway đã kiếm được rất nhiều tiền từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Trong cuộc khủng hoảng, Berkshire  đóng vai trò hiệp sĩ áo trắng (white knight investor), cung cấp những khoảng tiền khổng lồ và khẩn cấp cho các công ty lớn. Với túi tiền khủng của mình, Buffett có khả năng cho các định chế tài chính lớn như Bank of America hay Goldman Sachs vay với lãi suất cao, hoặc đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi của các tổ chức này với cổ tức hấp dẫn.

Một trong những công ty mà Berkshire cho vay tiền là Mars Inc. Năm 2008, Mars cần 23 tỉ USD mua lại Wm. Wrigley Jr. Buffett đã cho Mars vay 4.4 tỉ USD and dùng 2.1 tỉ USD mua cổ phần của Wrigley dưới dạng cổ đông thiểu số. Tại thời điểm đó, Buffett nói:” Các bạn đều biết rõ tôi rất thích mô hình kinh doanh của Wrigley từ nhiều năm nay, và tôi cũng thích sản phẩm của họ. Khi bạn muốn tìm một mô hình kinh doanh dễ hiểu, có tiềm năng tăng trưởng dài hạn, và có ban quản trị đáng tin tưởng, bạn sẽ nghĩ ngay đến Wrigley. Kết hợp những gì Wrigley đã có với một công ty có nguồn lực hùng hậu và xây dựng được thương hiệu tốt như Mars sẽ tạo nên một công ty “bá đạo” về sự sáng tạo & tăng trưởng trên thị trường bánh kẹo thế giới.
The Wall Street Journal cho biết Berkshire đã lãi ít nhất 680 triệu đô ở deal này. Mars đã mua lại trái phiếu trị giá 4.4 tỉ USD năm 2008 của Berkshire với giá cao hơn 115% so với par value cộng với tiền lãi. Deal này diễn ra ngay khi có tin rằng Berkshine đã exercise chứng quyền (warrant) trị giá 2 tỉ USD cho 13.2 triệu cổ phiếu của Goldman Sachs. Các chứng quyền này đã được thỏa thuận từ cuộc khủng hoảng 2008, Goldman Sachs đã phải cầu viện đến Berkshire để tăng vốn và vực lại niềm tin của thị trường, khi cổ phiếu của họ lao dốc sau sự kiện Lehman Brothers sụp đổ.

Buffett cũng làm 1 deal tương tự với Bank of America. Berkshire cho các ngân hàng lớn nhất vay, đổi lại lấy cổ phiếu ưu đãi của những ngân hàng này với cổ tức hấp dẫn, và điều khoản mua thêm cổ phiếu ở 1 mức giá xác định trong tương lai. Goldman đã mua lại số cổ phiếu ưu đãi từ Buffett với giá cao hơn 10% hồi tháng 3/2011. Những cổ phiếu này trả cổ tức lên tới 500 triệu USD mỗi năm, tương đương 15 USD một giây, theo Reuters.

Buffett đánh cược vào sự phục hồi của ngành tài chính, và Ông đã bỏ túi hàng tỉ đô từ những vụ đầu tư lớn vào các ngân hàng trong thời kì khủng hoảng. chỉ 2 năm sau khi Buffett bỏ tiền vào Bank of America, ông đã đem lại cho các cổ đông Berkshire lợi nhuận dự kiến 5.27 tỉ USD.

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Cách phân loại doanh nghiệp của Buffett

Hiểu biết về mô hình kinh doanh của 1 doanh nghiệp có thể làm tăng biên an toàn rất lớn cho việc đầu tư, và là 1 công cụ tuyệt vời để chúng ta bảo vệ bản thân khỏi rủi ro thua lỗ. Trong thư gửi cổ đông năm 1997, Buffett viết:
“Nếu bạn hiểu một doanh nghiệp một cách hoàn hảo, và tương lai của nó, bạn hầu như không cần nhiều biên an toàn. Nếu doanh nghiệp rất dễ tổn thương, và bạn vẫn muốn đầu tư vào nó, bạn càng cần yêu cầu một biên an toàn cao. Nếu bạn đang lái một chiếc xe tải qua một cây cầu, chiếc xe đang chở 9800 pound, trong khi tỷ trọng cho phép là 10000 pound, và cây cầu có một vết nứt rộng khoảng 6 inch, bạn có thể cảm thấy vẫn an toàn. Nhưng nếu bạn lái chiếc xe này qua Grand Canyon,bạn sẽ thấy sợ và cần biên an toàn cao hơn.”
Buffett phân loại business thành 3 nhóm: tuyệt vời, tốt, và ăn hại. Theo ông, 1 business tuyệt vời :
·         Tạo ra rất nhiều tiền và chỉ chi tiêu ít
·         Phải có moat: lợi thế cạnh tranh bền vững để ko bị đe dọa từ đối thủ cạnh tranh và giúp doanh nghiệp kiếm được lợi nhuận cao.
·         Hoạt động ở 1 ngành ổn định.
·         Cần ít vốn đầu tư mà vẫn tăng trưởng tốt.
·         Có thể dễ dàng tăng giá bán sản phẩm mà không sợ mất thị phần hoặc giảm số lượng sản phẩm.
Hoặc ngược lại, Buffett từng viết: phải tránh đầu tư vào 1 doanh nghiệp:
·         Chi tiêu nhiều hơn số tiền kiếm được.
·         Có đội ngũ lãnh đạo tồi.
·         ROE thấp
·         Hoạt động trong ngành mà một công ty mới cũng dễ dàng gia nhập và thành công
·         Hoạt động trong ngành có nhiều biến động (bởi công nghệ, luật pháp…)
·         Cần nhiều vốn tái đầu tư hàng năm để tăng trưởng
·         Không có khả năng tăng giá bán
·         Không có khả năng gia tăng doanh thu nhanh chóng chỉ với một ít vốn đầu tư thêm
Trong khi đó, 1 business tốt được định nghĩa như sau:
·         Có lợi thế cạnh tranh vừa phải nhưng vững chắc. Lợi thế cạnh tranh sẽ tăng dần theo độ lớn và hiệu quả kinh tế về quy mô.
·         Cần phải có 1 thuyền trưởng chèo lái doanh nghiệp tốt để tạo ra xuất sinh lời cao trên vốn đầu tư.
·         Tỉ lệ tăng trưởng  từ vừa phải đến cao, và vì vậy đòi hỏi phải bơm thêm tiền hàng năm.
 Buffett từng đề cập rằng 1 ban lãnh đạo tốt cũng khó có thể khôi phục 1 doanh nghiệp làm ăn tệ hoạt động trong 1 ngành không hấp dẫn, như ngành dệt, hàng hóa hoặc hàng không. Mặc dù có 1 ban lãnh đạo tốt khi mua công ty dệt, nhưng công ty dệt của WB vẫn làm ăn không hiệu quả và phải bán đi vào năm 1985. Theo Ông ước tính, nếu bỏ tiền vào 1 business tốt hơn từ sớm thay vì chôn vốn ở ngành dệt, lợi nhuận của ông có thể đã tăng gấp đôi hiện tại. 1 doanh nghiệp ăn hại không là một vụ đầu tư tồi tệ mà còn khiến chúng ta mất chi phí cơ hội rất lớn.
Để tóm lược 3 loại doanh nghiệp tuyệt vời, tốt & ăn hại, WB viết:

“ hãy nghĩ về 3 tài khoản tiết kiệm. 1 tài khoản tuyệt vời cho bạn lãi suất rất cao & sẽ tăng năm nay qua năm khác. Tài khoản tốt cho lãi suất hấp dẫn, nhưng yêu cầu bạn phải nạp thêm tiền vào tài khoản hàng năm. Trong khi đó, 1 khoản tiết kiệm tồi vừa trả lãi suất thấp vừa bắt bạn phải nạp rất nhiều tiền vào mà không được hưởng lãi. “