Thứ Hai, 28 tháng 1, 2013

When to sell?


Giống như nhóm bạn Nôbita ở trên, tôi chỉ thích mua cổ phiếu, múc húc xúc, giữ cổ phiếu, khi bán thì phải CE chục phiên bán mới đã. Ước gì mình giỏi được như W. Buffett, mua cổ phiếu giữ cả chục năm, ăn vài chục lần mới bán. Tuy nhiên, tôi không chọn cổ phiếu giỏi như WB, nhiều lúc cổ phiếu không đi đúng kì vọng, hoặc 1 cổ phiếu tốt hôm nay nhưng có thể sẽ rất xấu vào ngày mai, cần phải đưa ra quyết định bán hợp lý.  Thực tế thì việc chọn thời điểm bán thường khó hơn việc chọn thời điểm mua. Nhưng chính điều này mới giúp chúng ta hiện thực hoá lợi nhuận hoặc cắt lỗ kịp thời để còn sống sót tiếp tục cuộc chơi. Dưới đây là 1 vài tín hiệu cho thấy đã đến lúc nghĩ đến việc bán cổ phiếu. Những tín hiệu này chắc chắn không phù hợp với tín đồ T/A hoặc các cao thủ mua đáy bán đỉnh, tuy nhiên nếu mục tiêu trước mắt của bạn là hạn chế thua lỗ thì đọc qua 1 vài tín hiệu này hi vọng sẽ có ích phần nào:

Tín hiệu 1: Chỉ số P/E của cổ phiếu bạn đang giữ đột nhiên tăng quá nhanh

Đối với nhà đầu tư dài hạn, chỉ số P/E đơn giản nhưng luôn là indicator chính xác nhất. PE ratio là chỉ số quan trọng nhất để đánh giá cổ phiếu mắc hay rẻ. Khó có thể khẳng định P/E bao nhiêu là cao hay thấp, nó chỉ thể hiện kỳ vọng của nhà đầu tư vào earning của công ty. Nếu sự kỳ vọng này cao, thì người ta sẵn sàng trả một giá cao cho một công ty. Tuy nhiên, nếu so sánh với 1 công ty tương tự nhưng có P/E thấp hơn, cổ phiếu của công ty có P/E cao có thể đã overpriced, và nếu earning không đáp ứng được kì vọng quá cao của nhà đầu tư thì chắc chắn nó sẽ rớt thảm. Cổ phiếu Apple rớt giá là 1 ví dụ cho trường hợp này. Apple rớt giá không phải vì nó dỏm, mà là vì nhà đầu tư kì vọng quá cao vào Apple nên mới trả 1 mức giá trên trời cho nó. Khi niềm tin vụn vỡ thì cổ phiếu tốt như Apple cũng bị bán tháo như thường. Nếu nói vuốt đuôi TTCK Việt Nam thì đỉnh điểm năm 2007 TTCK chúng ta có P/E lên đến gần 30, 1 mức quá cao cho bất cứ TTCK nào, & vấn đề bán tháo chỉ là sớm hay muộn mà thôi.
Túm lại, P/E cao không có nghĩa là cổ phiếu đó đã overvalued, nhưng nếu nó đã cao so với trung bình ngành & thị trường chung thì tốt nhất nên chốt lãi cho an tâm.

Tín hiệu 2: Lợi thế cạnh tranh của công ty không còn nữa

Khi 1 công ty thống lãnh thị trường, tạo ra sản phẩm chất lượng, giá thấp… những lợi thế cạnh tranh này làm cho nhà đầu tư sẳn sàng bỏ nhiều tiền ra mua cổ phiếu của công ty đó. Trước đây khi nhắc đến 1 công ty IT người ta sẽ nghĩ ngày đến FPT. Nhưng khi FPT không giữ được vị thế độc tôn ở core business của mình, phân tán sức sang các lĩnh vực bán lẻ, chứng khoán, ngân hàng cũng không thành công, giá cổ phiếu FPT tụt dốc là không tránh khỏi. Lúc này VNM đang là cổ phiếu no.1 & là hãng sữa No.1 ở VN, nhưng nếu lỡ có thêm nhãn hiệu mắm VNM, công ty CK VNM thì lúc đó hãy coi chừng. Nếu 1 công ty có dấu hiệu suy yếu trong lĩnh vực chủ chốt của mình & phải kiếm ăn sang lĩnh vực khác là 1 tín hiệu để bán!

Tín hiệu 3: công ty thay đổi giám đốc & ban lãnh đạo đột ngột

Nếu những nhà quản lý cấp cao, những người chịu trách nhiệm về sự thành công của doanh nghiệp, bắt đầu rời bỏ công ty thì có thể xem đó là dấu hiệu bất lợi cho tương lai của công ty. Khi đó, các nhà đầu tư cần phải theo dõi và phát hiện xem tại sao lại có những thay đổi như vậy. Nhiều người mua cổ phiếu Apple vì tin tưởng vào tài phép của Steve Jobs sẽ cho ra đời nhiều sản phẩm đột biến hơn nữa. Nhưng khi Apple không còn Steve nữa, có chắc là Apple vẫn sẽ tăng trưởng và sáng tạo được như xưa? Lúc này cần đánh giá lại tác động của việc thay đổi ban lãnh đạo & canh bán nếu không chắc về tài năng của ban lãnh đạo mới.

Tín hiệu 4: doanh số bán hàng của công ty không ổn định hoặc giảm mạnh

Nền kinh tế khắc nghiệt như hiện nay thì rất khó để 1 công ty có thể tăng trưởng doanh số liên tục, tuy nhiên việc doanh số cứ giảm dần dần là tín hiệu báo động rằng công ty gặp khó khăn trong việc bán hàng. Lợi nhuận có thể kiếm hoặc bùa chú từ nhiều nguồn, nhưng doanh thu giảm chứng tỏ người tiêu dùng không muốn bỏ tiền mua sản phẩm của doanh nghiệp như trước. Đặc biệt nếu đối thủ cạnh tranh vẫn tăng trưởng doanh thu bình thường thì càng chứng tỏ sản phẩm của công ty không đấu lại đối thủ, lúc đó nên nghĩ đến việc bán cổ phiếu đi.  

Tín hiệu 5:  Lợi nhuận và cổ tức giảm sút

Ban quản trị công ty luôn muốn đưa những tín hiệu tốt về viễn cảnh tương lai của mình ra thị trường. Nhưng hành động của công ty có giá trị hơn những lời tuyên bố.  Nếu là do ban quản trị công ty quyết định không chia cổ tức để tập trung vốn cho việc phát triển và mở rộng quy mô công ty, thì đó lại là điều tốt và cổ phiếu sẽ tăng giá trong tương lai (nhớ check lại báo cáo tài chính khoản mục xây dựng cơ bản & chi phí nghiên cứu phát triển xem có đúng là đầu tư nghiên cứu thật không). Nhưng thông thường thì sự sụt giảm về lợi nhuận và cổ tức là dấu hiệu xấu cho thấy tương lai của công ty gặp nhiều khó khăn, cần cân nhắc việc bán cổ phiếu đi.

Thứ Tư, 23 tháng 1, 2013

Benjamin Graham:Kĩ năng hay may mắn?

Chúng ta thường nghĩ rằng các nhà đầu tư huyền thoại như Peter Lynch, George Soros, John Templeton, Warren Buffett, Benjamin Graham đều là thiên tài kiệt suất và chiến thắng thị trường bằng những kĩ năng, kiến thức của họ. Nhưng cũng có nhiều người cho rằng may mắn đóng vai trò rất quan trọng trong kết quả đầu tư của các huyền thoại trên.

Benjamin Graham, chưởng môn phái đầu tư giá trị, sư phụ của W. Buffett được xem là nhà đầu tư giỏi nhất của thế kỉ 20 với tuyệt học “The Intelligent Investor” phổ biến trên toàn thế giới. Thành tích của ông là đánh bại Mr. Market trong hơn 2 thập kỉ với suất sinh lời cao hơn thị trường ít nhất 2.5% mỗi năm. Khi được Financial Analysts Journal hỏi về bí kíp (năm 1976) thì ông thừa nhận: “thành quả đầu tư của tao phần nhiều nhờ ăn hên thôi, không có tuyệt kĩ gì đâu (đúng với tôn chỉ 1 lần khiêm tốn bằng 4 lần tự cao của bậc minh chủ võ lâm). Tao làm biếng phân tích định giá để tìm 1 cổ phiếu undervalue, vì nghiên cứu cho lắm, tốn công tôn tiền mà chưa chắc đã tìm ra được hàng hot. Vì vậy tao quan tâm nhiều hơn đến toàn thể danh mục, chọn đại ít nhất 30 cổ đáp ứng 1 số tiêu chí riêng của tao, ví dụ hàng nhẹ mông PE<10, nợ/Vốn chủ thấp hơn 50%, …giữ đến khi ăn được 50% thì té. Nếu giữ hàng đến năm thứ 2 mà nó ko tăng giá như dự định thì giá nào cũng té, tìm hàng khác nuôi trồng. Cách anh đơn giản zị thui, chú không tin cứ về làm thử xem 5 năm sau có ăn được trên 100% ko”

1 cây bút nổi tiếng về tài chính - John P. Reese của tạp chí Forbes là 1 fan hâm mộ cuồng nhiệt của Ben & đã nghiên cứu rất kĩ chiến lược đầu tư của ông. Những năm 1936-1956, suất sinh lời hàng năm của Ben luôn trên 20%, so với thị trường chung là 12.2%. Reese có vẻ đã tìm ra chén thánh & kiêm quyết làm theo cách của Graham trong kiếm phổ “ nhà đầu tư thông minh” . Và kết quả là danh mục của John đạt lợi nhuận gộp là 224.3% (trung bình năm là 13.3%) trong 10 năm qua, trong khi đó suất sinh lời của S&P 500 chỉ là 3.9% mỗi năm. Nếu chỉ tính trong năm 2012, suất sinh lời của S&P 500 là 13.7% thì danh mục theo phương pháp của Graham tăng hơn gấp đôi TT chung, đạt 28.5%. John đã viết 1 bài về Graham, dùng trải nghiệm thực tế của mình để kết luận rằng Graham đúng là thiên tài & thành công của ông không phải là may mắn.

Nếu bạn bỏ 100$ vào thị trường và cổ phiếu theo phương pháp đơn giản của Graham, kết quả như sau:


Từ 100$ vốn, bạn đã có 36,354$ vào cuối năm 2011. Trong khi đó tính theo suất sinh lời của S&P 500 thì chỉ tăng lên được 4,351$, tức là phương pháp Graham lời gấp 9 lần so với thị trường chung. Tuy nhiên, danh mục của Graham có volatility cao, Stardard Deviation lên đến 23.9%, so với S&P500 là 15.4%. Lí do là vì khi thị trường chung xấu, các cổ phiếu dưới giá trị, chưa được thị trường ngó tới sẽ càng bị bán tháo mạnh hơn nữa khi khủng hoảng.

Ví dụ trên có thể thấy thành công của Graham có được là do kĩ năng chọn cổ phiếu & sự lì lợm, quyết đoán, kỉ luật với chiến lược đầu tư mình đề ra. Nếu bạn chưa tìm được chén thành nào đáng tin tưởng để đặt tiền vào, hãy nghiên cứu cách làm đơn giản của Graham & áp dụng vào TTCK Việt Nam xem sao. Chân lí nhiều khi đơn giản ngay trước mắt, nhưng người ta lại có xu hướng tin tưởng vào những thuật toán, program phứt tạp, đắt tiền, mặc dù chẳng hiểu được nguyên lý nào mà con robot của mình hô buy hay sell.

Khi nói về tư chất của một nhà đầu tư giỏi, Buffett cho rằng, một nhà đầu tư giỏi không nhất thiết phải là một thiên tài. “Bạn không cần phải là một nhà khoa học tên lửa. Đầu tư không phải là một trò chơi mà một người với chỉ số IQ 160 thắng một người có chỉ số IQ 130”

Thứ Ba, 15 tháng 1, 2013

Đầu tư chứng khoán: siêu mèo Orlando thắng cả Fund Manager


Cuộc thi đầu tư chứng khoán giữa 1 em mèo tên Orlando và các Fund manager:Justin Urquhart Stewart của  Seven Investment Management, Paul Kavanagh của Killick & Co, và  Schroders, fund manager của quỹ Andy Brough, đội thứ 3 là các em học sinh cấp 2 trường John Warner School.
Cuộc thi do nhật báo Observer nổi tiếng ở Anh tổ chức. Mỗi đội có 5,000$, được đầu tư 5 cổ phiếu của FTSE từ đầu năm 2012. Sau 3 tháng, mỗi đổi có quyền tái cơ cấu danh mục. Đến tháng 9, 3 anh Fund Manager đẹp trai hả hê khi kiếm được gần 500$, trong khi em mèo Orlando chỉ lãi 292$. Nhưng tổng kết cuối năm, danh mục của em mèo đã bức phá ngoại mục và lãi được 542$, trong khi 3 anh FM chỉ lãi có 176$, đội trẻ em bị lỗ 160$.
Trong khi 3FM cao thủ chứng khoán dùng nhiều kiểu phân tích, định giá để chọn cổ phiếu, em mèo Orlando chỉ nhắm mắt, vuốt râu click chuột đại vào 5 cổ phiếu bất kì. Kết quả cuộc thi lại 1 lần nữa gây tranh cãi là liệu các cao thủ chứng khoán chuyên nghiệp, được trang bị kiến thức & công cụ đầu tư đến tận răng có chiến thắng được thị trường không? Em mèo Orlando là minh chứng hùng hồn cho thuyết “ bước đi ngẫu nhiên”  của Malkiel – học thuyết  nói rằng sự vận động của giá cả trên thị trường chứng khoán sẽ không đi theo bất kì một khuôn mẫu hay một xu hướng nào đã từng có trước đây. Và do đó những biến động giá trong quá khứ sẽ không thể sử dụng được trong việc dự đoán những bước đi tiếp theo của chú bò này trong tương lai.
Quan điểm của trường phái Bước đi ngẫu nhiên xem thường đóng góp của các Active Fund Manager đối với việc lựa chọn cổ phiếu. Nhiều nhà đầu tư & FM tin vào bước đi ngẫu nhiên và chọn cách đầu tư Passive cho nó lành, mua 1 rổ cổ phiếu theo index cho đỡ tốn sức. Các đại ca tiêu biểu của trường phái này là Burton Malkiel với tuyệt học bước đi ngẫu nhiên, Paul Samuelson, Charles Ellis. Ellis với “ The loser’s Game (1975)” nghiên cứu TTCk từ 1960-1970 & kết luận rằng cá biệt có vài % đám Active FM cho lợi nhuận đột biến, còn lại tính trung bình thì đều thua thị trường chung. Như vậy việc gì phải đưa tiền cho cho họ với phí quản lí, phí giao dịch & thuế quá cao mà chẳng hơn gì tự mình mua. Tuy nhiên, Passive investment chỉ hợp với các thị trường có tính hiệu quả về thông tin cao. Còn ở các thị trường mới nổi, vốn hoá thấp, dễ lái tàu (như VN chẳng hạn), đầu tư theo index mà nhìn hàng hot của ông hàng xóm tăng 100% thì thắng 15% cũng như là thua.

Thứ Bảy, 5 tháng 1, 2013

5 cách kiểm soát cảm xúc khi trading

TTCK đã tăng mạnh hơn 1 tháng liền, tôi đã lỡ sóng trong khi có nhiều người đã kiếm đc 20%, 30%, có người còn kiếm được cả 100% chỉ trong 1 con sóng tăng này. Tôi quyết định sẽ đua trần tuần sau vì cảm giác ngứa tay & sợ phải tiếc nuối nếu lỡ thêm 1 sóng nữa. Nếu như không kiếm được 1 điểm vào tốt mà vẫn lên tàu vì tâm lý tham lam, tôi đã vô tình để tình cảm lấn át vào việc trading quá nhiều.

Để kiểm soát cảm xúc trong trading, bài học đúc kết của các trader nhiều kinh nghiệm đó là phải xem trading như 1 công việc kinh doanh nghiêm túc! Chờ đợi điểm vào thích hợp để tối đa hoá lợi nhuận cũng là 1 phần của kinh doanh. Ngoài ra, lên kế hoạch cụ thể, đặt mục tiêu, nghiên cứu thị trường hàng ngày cũng là những việc nên làm của 1 nhà buôn chứng nghiêm túc.

Dưới đây là 5 cách hiệu quả để kiểm soát cảm xúc trong trading:

1/ Học 1 vài chiêu thức trading mới: với 1 nghề có tỉ lệ thất bại thuộc loại cao nhất & rất rủi ro như Trading, việc học tập & rèn luyện võ công hàng ngày không bao giờ là thừa. Phân tích báo cáo tài chính, cách đi tiền, RSI, MACD, hay các mẫu hình phải nhớ ... Học tập hàng ngày sẽ giúp bạn thêm tự tin & kiềm chế cảm xúc tốt hơn.

2/ Tự làm 1 nghiên cứu chuyên sâu về TTCK: các yếu tố ảnh hưởng đến thị trường luôn biến đổi liên tục. Nếu bạn thắc mắc thị trường sắp tới sẽ tăng vì điều gì, CDS tương quan với Vnindex ra sao, giải quyết nợ xấu như thế nào & sẽ tốt cho sector bất động sản…? Hãy tự mình thu thập thông tin & viết 1 nghiên cứu để làm vốn liếng của riêng mình.

3/ Trade ảo thật tốt trước khi trade thật: bạn đang học 1 chiến thuật mới hoặc muốn test 1 indicator mới, nếu vậy hãy trade ảo để tập vũ khí mới cho thuần thục hãy đem ra đấu với thị trường. Nhiều người cho rằng trade ảo không có cảm xúc, không đã nên thường dùng tiền tươi thóc thật để thử nghiệm chiến thuật. 1 phần họ tự tin với chiếc chén thánh mới của mình, đã back test rồi, nên rất háo hức dùng để “kiếm tiền” ngay. Thực tế là khi mới bước vào cuộc chiến, mục tiêu ít bị thua, bị thua nhẹ khả thi hơn là mục tiêu trăm trận thắng trăm.

4/ Lập kế hoạch trade: Nếu bạn chưa lập kế hoạch trading, hãy lập kế hoạch trading cụ thể. Nếu bạn đã có kế hoạch, hãy theo dõi nó thường xuyên & update định kì. Hãy viết kế hoạch trade, lí do mua, lí do bán, thắng thua bao nhiêu, sai sót ở đâu, 1 thời gian sau bạn sẽ thấy trình độ và hiệu quả trading của mình tăng lên đáng kể.

5/ Phân tích thật kĩ 5 chart (nếu bạn là TAer) trước khi trade: phân tích kĩ đồ thị của 5 cổ phiếu bạn muốn mua ngay tuần sau, tín hiệu bullish là gì, có tín hiệu nào xấu không, các ngưỡng kháng cự hỗ trợ sắp tới, mức giá nào entry là an toàn & hợp lí nhất. Nếu bạn không mua hết 5 cổ thì chọn con nào khoẻ nhất trong 5 con để mua. Làm công việc này sẽ giúp bạn suy nghĩ kĩ càng trước khi trade & loại bỏ tác động của cảm xúc vào trading.

Thứ Tư, 2 tháng 1, 2013

Bill Gates kiếm được 7 tỉ USD trong năm 2012


Mặc cho kinh tế khó khăn, năm 2012 là 1 năm ăn nên làm ra với các tỉ phú. Tổng tài sản của các tỉ phú tăng 241 tỉ USD trong năm 2012.
Mặc dù đã quyên góp đến 28 tỉ USD cho công tác từ thiện, Bill Gates vẫn là người giàu thứ 2 thế giới 63.4 tỉ USD, tăng 7 tỉ USD so với năm ngoái. Cổ phiếu MicroSoft tăng 2% đã đóng góp 1 phần vào khối tài sản 7 tỉ mà Gates kiếm được. Tuy nhiên hiện tại cổ phiếu MS chỉ chiếm khoảng 20% tổng tài sản của ông. Nếu MS ko còn là kho báu của Bill Gates, vậy ông đã kiếm hàng tỉ đô từ đâu? Theo báo cáo của Uỷ Ban chứng khoán Mỹ (SEC), ông vừa có 1 vụ đầu tư bí mật vào công ty CASCADE INVESTMENT. Ngoài ra, ông còn có cổ phần rất nhiều công ty về sản suất máy kéo (Deere & Co), tái chế rác, bán lẻ otô…
Ngoài Bill Gates, các vị siêu giàu khác như thiên hạ vô địch Carlo Slim kiếm được 13.4 tỉ USD, là người kiếm được nhiều thứ 2 thế giới năm vừa rồi. Warren Buffett “chỉ” kiếm được 5.1 tỉ USD, nhường vị trí số 3 thế giới cho Amancio Ortega. Doanh nhân 76 tuổi người Tây Ban Nha này kiếm được đến 22.2 tỉ USD trong năm con Rồng & tăng tổng tài sản lên 57.5 tỉ USD.
Dù không còn là người giàu nhất thế giới, nhưng Bill Gates vẫn là tỉ phú được nể trọng nhất thế giới với công việc từ thiện mang lại rất nhiều giá trị cho xã hội. Infographic này cho thấy vì sao Bill Gates is better than Batman

[Chart] Top 10 sàn chứng khoán có giá trị IPO lớn nhất 2012


Theo số liệu của The Economist, tổng giá trị Initial public offerings (IPO) trên thế giới năm 2012 là 123 tỉ USD, thấp nhất trong 3 năm gần đây, giảm gần ¼ so với năm 2011. Vụ IPO của Facebook hồi tháng 5 trị giá 16 tỉ USD là vụ IPO lớn nhất thế giới năm nay & đứng thứ 3 trong lịch sử TTCK Mỹ. Vụ IPO của Japan Airlines trị giá 8.5 tỉ USD lớn thứ 2 trên thế giới năm nay.
Năm nay, các vụ IPO ở TTCK Mỹ chiếm đến 2/5 giá trị IPO toàn cầu, trong khi đó giá trị IPO ở TTCK Trung Quốc (tính cả Hồng Kông ) giảm mạnh từ 40% xuống còn 18% trong năm 2012. Dưới đây là đồ thị chi tiết:
theo The Economist

Thứ Ba, 1 tháng 1, 2013

Vnindex: đầu xuôi đuôi có lọt?

Phiên giao dịch đầu năm 2013, chỉ số Vnindex bốc đầu ngay lúc mở cửa & hàng loạt các cổ phiếu được kéo trần. Các diễn đàn chứng khoán đang ngập trong bia bọt & chuẩn bị cuộc đua ngựa xem ngựa nhà ai chạy lẹ hơn.

Tuy nhiên, tăng giá mạnh trong 1 tháng liền, phiên hôm nay chỉ số Vni đã chạm đường cản trên MA200. Các bạn còn nhớ con sóng đầu năm 2012, TT tăng 1 lèo khoan thủng hết các kháng cự, như khi chạm phải MA200 phải điều chỉnh 1 tuần mới lấy sức phi tiếp được. Ngưỡng MA200 luôn là cản tường đồng vách thép trong TA.

Chart 5' phiên hôm nay, 2/1/2013:

Từ sau sự kiện BK hồi tháng 8, chỉ số Vni đã rớt mạnh khỏi đường MA200 và đi ngang 3 tháng liền. Với khoảng trống giá + bức tường bê tông MA200 trước mặt, liệu Vnindex có tiếp tục ủi văng các kháng cự để đi tiếp hay buộc phải điều chỉnh lấy sức?
Chứng khoán là cuộc chơi của xác suất, cửa nào xác suất xảy ra cao hơn thì ta bỏ tiền vào cửa đó. Các bạn sẽ hành động thế nào trong tuần đầu năm 2013: tiếp tục đu trend ăn cả con cá, chốt lời chờ điều chỉnh hay mua thêm kẻo lỡ sóng?

[Risk management] Phân loại rủi ro tỉ giá



Đầu tư luôn tiềm ẩn rủi ro. Nếu vụ đầu tư nào không có rủi ro, lợi nhuận kì vọng chắc chắn sẽ rất thấp. Thuật ngữ high risk high EXPECTED return (mà mọi người thường bỏ quên chữ EXPECTED) xuất hiện từ thời La Mã & vẫn luôn đúng trong đầu tư & kinh doanh. Nhiều doanh nghiệp, ngân hàng, quỹ đầu tư… mãi chạy theo chữ return, bỏ quên chữ RISK dẫn đến nhiều hậu quả to lớn. Bong bóng bất động sản ở VN là 1 ví dụ điển hình cho việc chạy theo high return làm cho nhiều công ty bất động sản, ngân hàng & nhà nước phải điêu đứng & vẫn đang loay hoay tìm cách giải quyết cục nợ này.
Kỹ nghệ tài chính ngày càng phát triển làm cho rất nhiều sáng kiến kiểm soát, hedging rủi ro ra đời. Nhưng trước khi tìm cách hedging rủi ro, hãy tiến hành phân loại các loại rủi ro khác nhau mà bất kì doanh nghiệp nào cũng có thể gặp phải.
Các rủi ro 1 doanh nghiệp gặp phải có thể phân thành 2 loại là rủi ro tài chính & rủi ro phi tài chính như hình vẽ bên dưới:

Trong đó, loại rủi ro mà chúng ta quen thuộc nhất chính là rủi ro thị trường, bao gồm rủi ro lãi suất, rủi ro tỉ giá, rủi ro giá cả hàng hoá & rủi ro giá chứng khoán. 
Để phân tích, đánh giá & hedging cho tất cả các loại rủi ro trên có lẽ phải viết 1 bài nghiên cứu hàng trăm trang mới đủ. Trong 1 bài viết tầm 1000 chữ thế này, người viết chỉ xin giới thiệu đến bạn đọc 1 loại risk rất phổ biến, nhiều doanh nghiệp gặp phải & có thể dùng các công cụ phái sinh để hedging được, đó là rủi ro tỉ giá.
Rủi ro tỉ giá biến động ảnh hưởng đến rất nhiều loại hình doanh nghiệp, đặc biệt là các công ty đa quốc gia (MNC). Bất kì công ty nào có hoạt động mua bán hàng hoá với đối tác ở nước ngoài đều chịu loại rủi ro này. Rủi ro tỉ giá được phân thành 3 loại:

1/ Rủi ro giao dịch (Transaction exposure)
Rủi ro giao dịch nảy sinh khi 1 công ty A bán hàng cho công ty B ở nước ngoài & sẽ thu tiền trong tương lai gần. Vì xuất khẩu nên sẽ thu về đồng ngoại tệ, như vậy nếu tỉ giá biến động mạnh thì công ty A sẽ đổi ngoại tệ thành nội tệ không đúng với kì vọng của họ. Công ty A có thể dự đoán tốt nhu cầu tiêu dùng ở nước B, đặt giá bán cạnh tranh, kiếm lời được 10% cho lô hàng đó. Nhưng họ không phải là chuyên gia về tỉ giá nên rất khó dự đoán từ lúc bán hàng đến khi nhận tiền ngoại tệ về, tỉ giá sẽ biến động thế nào. Giả sử nhận 1 cục ngoại tệ về, ngoại tệ đó mất giá 10% so với lúc bán hàng thì xem như toàn bộ lợi nhuận của lô hàng bị tỉ giá ăn hết. Vì vậy nhiều doanh nghiệp chọn cách dùng derivaties chốt 1 tỉ giá dòng tiền mình sẽ nhận được luôn.

2/ translation exposure

Ngoài rủi ro về dòng tiền, tỉ giá còn ảnh hưởng việc chuyển đơn vị tiền tệ của báo cáo tài chính từ đồng nội tệ sang ngoại tệ. Ví dụ 1 MNC có chi nhánh ở nhiều quốc gia, cuối năm muốn hợp nhất báo cáo tài chính về đồng USD, trong khi công ty con ở VN lại trình bày bằng đồng VND. Lợi nhuận theo BCTC cty con là tăng 20% so với đầu năm, nhưng do tỉ giá USD: VND tăng lên, khiến cho khi đổi BCTC sang đồng tiền USD lợi nhuận chỉ còn tăng 15%. Loại rủi ro này gọi là translation exposure. Không phải tất cả các MNC đều chịu rủi ro này. Nhiều MNC tổ chức hệ thống kế toán, phần mềm kế toán nhất quán cho cả tập đoàn nên quy định mọi chi nhánh phải hạch toán chung 1 đồng tiền. Vì vậy khi translation BCTC sẽ ko gặp loại rủi ro này.

3/ Rủi ro kinh tế (economic exposure)

Cuối cùng, tỉ giá biến động có thể làm cho hàng hoá & dịch vụ của công ty A mất lợi thế cạnh tranh so với sản phẩm tương tự ở quốc gia khác. Loại rủi ro này tác động đến tất cả các công ty, bất kể là công ty đó có giao dịch ở thị trường nước ngoài hay không. Ví dụ đồng Bạc Thái tự nhiên tăng giá trị lên, làm hàng hoá dịch vụ của Thái sẽ mắc lên tương đối so với đồng VND. Ngày trước người VN hay qua Thái du lịch thư giãn vì giá rẻ và…, tự nhiên bi giờ đổi tiền qua Thái chơi thấy mắc lên nên số người đi sẽ ít hơn
Các  cty du lịch ăn uống & các dịch vụ khác của Thái bị giảm doanh thu do ít khách hơ , mặc dù tất cả các giao dịch đều dùng đồng bạc Thái ở nước Thái, ko có giao dịch nào ở nước ngoài. Đây chính là economic risk.
Trong  3 loại exchange rate risk như trên, translation risk muốn giảm thì phải tập trung thật nhiều vào kế toán hàng ngày, hàng tháng, rất phứt tạp & ko hiệu quả. Economic risk muốn giảm thì phải dự đoán thay đổi tỉ giá, cung cầu ngoại tệ của thị trường để đoán hướng đi tỉ giá, cũng rất phứt tạp & gần như ngoài tầm của doanh nghiệp. Vì vậy doanh nghiệp chỉ tập trung vào transaction risk. Có rất nhiều công cụ, & dễ hedging vì doanh nghiệp biết rõ transaction nào bị risk đồng ngoại tệ gì nên hedging không khó.
Các công cụ để hedging transation risk là các sản phẩm phái sinh (derivatives) như forward, option, future, swap, mỗi loại có 1 đặc điểm riêng & phí khác nhau. DN tuỳ theo yêu cầu mà dùng loại nào cho hiệu quả