Hiện nay có khá nhiều doanh nghiệp niêm yết có công ty con
& phải cùng lúc phát hành báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ & báo
cáo tài chính hợp nhất. Đọc & hiểu báo cáo tài chính hợp nhất có vẻ là 1
món ăn khó nuốt, kể cả đối với dân tài chính – đầu tư không chuyên về kế toán.
Vậy báo cáo tài chính hợp nhất có ý nghĩa gì? Khi lợi nhuận của BCTC hợp nhất
& BCTC công ty mẹ khác nhau thì cơ sở nào để công ty chia cổ tức?
Về vấn đề chia cổ tức, trước đây đã có tiền lệ của công ty
Vinaconex (VCG) khi quỹ lợi nhuận sau
thuế trong BCTC hợp nhất năm 2009 là -72,94 tỷ đồng, trong khi lợi nhuận sau thuế trong BCTC kiểm toán năm
2009 Công ty mẹ là 415,26 tỷ đồng. Rất nhiều nhà đầu tư thắc mắc là trường hợp
này liệu doanh nghiệp có được chia cổ tức không? VCG cũng đã hỏi uỷ ban chứng
khoán & nhận được trả lời bằng công văn số 508/UBCK-QLPH ngày 18/2/2011 nội
dung chính như sau: (xem file đính kèm đầy đủ công văn)
“Về áp dụng các nguyên tắc trên để trả cổ tức, việc Tổng
công ty thực hiện quyền của công ty mẹ để chi trả cổ tức phải căn cứ trên báo cáo tài kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất.
Tuy nhiên, nếu kết quả hoạt động kinh doanh trên Báo cáo kết quả kinh doanh của
công ty mẹ nhỏ hơn trên báo cáo kết
quả kinh doanh hợp nhất thì căn cứ
trên báo cáo KQHD KD của công ty mẹ.”
Vì đã có công văn hướng dẫn nên các công ty khác nếu gặp trường
hợp này mà cảm thấy lăn tăn thì vẫn phải làm đúng theo luật quy định. Tuy
nhiên, công văn này vấp phải nhiều ý kiến trái chiều của các nhà đầu tư &
các chuyên gia. Theo ông Bùi Văn Mai, Tổng thư ký Hội kiểm toán viên hành nghề
Việt Nam (VACPA) cho biết: "BCTC hợp nhất không phải là BCTC mang tính
pháp lý để xử lý các vấn đề tài chính như nộp thuế, phân phối lợi nhuận… mà phải
căn cứ trên BCTC công ty mẹ, vì đây mới là BCTC mang tính pháp lý". Theo
ông Mai, BCTC hợp nhất của một DN không phải thể hiện lãi/lỗ của DN đó trong
năm tài chính, mà thể hiện thực trạng tài chính, kết quả hoạt động và các thay
đổi tình hình tài chính của toàn bộ tập đoàn/hệ thống/nhóm công ty mẹ-con. Chính vì vậy, với BCTC hợp nhất, tình hình
tài chính của Công ty mẹ không được thể hiện chính xác, mà chỉ có tác dụng xem
xét sự phân bổ và sử dụng hiệu quả của toàn hệ thống. Do đó, ông Mai khuyến
cáo: NĐT khi mua cổ phiếu của công mẹ thì nên tập trung chú ý vào tình hình tài
chính thể hiện qua BCTC công ty mẹ, chứ không phải BCTC hợp nhất, vì đây mới là
tài liệu thể hiện tình hình tài chính của DN mà họ đầu tư. Việc xem xét BCTC hợp
nhất chỉ giúp NĐT có cái nhìn tổng quan về cả hệ thống.”
Anh Phạm Thứ Triệu cũng viết 1 bài rất hay về vấn đề này
trên saga: http://saga.vn/Taichinh/Thitruong/22302.saga
Đây là vấn đề khá nặng về kiến thức kế toán nên thật khó để
diễn giải 1 cách dễ hiểu cho người đọc phổ thông. Ý kiến cá nhân của mình là đồng
ý 100% với nhận xét của ông Mai. Việc UBCK quy định chia cổ tức theo kết quả hợp
nhất (hoặc là theo BCTC công ty mẹ nếu lợi nhuận công ty mẹ nhỏ hơn) là khá củ
chuối và không logic với chuẩn mực kế toán. Chuẩn mực kế toán số 25 có quy định
cách hợp nhất báo cáo tài chính. Hiểu 1 cách đơn giản, ở BCTC công ty mẹ, chúng
ta xem các công ty con như là 1 khoản đầu tư dài hạn & chiếm 1 phần trong
tài khoản 221- đầu tư vào công ty con. Các công ty con có lãi hay lỗ công ty mẹ
sẽ được ăn chia theo phần trăm sở hữu. Như
ông Mai nói, BCTC hợp nhất không có tính pháp lý, nó không thể hiện tình hình
tài chính của doanh nghiệp mà bạn đầu tư. BCTC hợp nhất chỉ cho ta bức tranh tổng
thể về cả tập đoàn, khi tiến hành hợp nhất bằng cách cộng dồn các tài khoản
tương ứng, kết hợp với loại trừ các giao dịch nội bộ, lãi các giao dịch nội bộ
chưa thực hiện. Ví dụ công ty mẹ có lãi rất lớn nhưng chủ yếu chỉ là bán hàng
cho công ty con. Nếu công ty con mua hàng từ mẹ & đã bán cho bên thứ 3 thì
không sao, nhưng nếu vẫn chưa bán cho bên thứ 3 thì xem như chưa thực hiện. Trường
hợp này ở BCTC công ty mẹ vẫn cho ghi nhận doanh thu, lợi nhuận nhưng khi lên
báo cáo hợp nhất sẽ loại trừ, chỉ tính những doanh thu đã bán ra ngoài, không
tính những khoản chỉ bán qua bán lại trong gia đình.
Trường hợp logic về tính lợi nhuận theo BCTC công ty mẹ ở
trên chắc vẫn chưa giúp bạn hiểu ra được sự khác nhau giữa công ty mẹ và BCTC hợp
nhất. Ta hãy chuyển từ việc chia lời sang việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Ví
dụ 1 gia đình có 3 công ty A(mẹ) với 2 con là B, C tiền thuế mỗi công ty phải đóng là 50đ, 25đ & 0đ. Khi hợp
nhất BCTC, cộng ngang cộng dọc loại trừ tứ tung, có thể tổng tiền thuế phải đóng sẽ là 62.5đ. Không lẽ tập đoàn lại đòi lại tiền ông thuế
với lí do hợp nhất tui chỉ lãi 250đ nên đã đóng dư tiền thuế 12.5đ. Tất nhiên
thuế không hoàn lại vì ông thuế chỉ túm 3 ông có tóc là A,B,C có đăng kí thành
lập doanh nghiệp và dựa trên BCTC của 3 ông để đánh thuế thôi. Ông hợp nhất là
ông nào, đâu có đăng kí là 1 pháp nhân với thuế. Tương tự, nếu hợp nhất ra số
thuế phải đóng nhiều hơn, vậy tập đoàn lấy thêm tiền của A, B, hay C và mỗi ông
lấy bao nhiêu để đóng thêm tiền thuế? Tất nhiên không ông nào chịu đóng thêm vì
lợi nhuận tui có nhiêu đó, đâu thể bắt tui đóng nhiều hơn nghĩa vụ phải làm được.
Đó là lí do vì sao BCTC hợp nhất không có giá trị pháp lý.
Túm lại, khi phân tích đầu tư thì bạn có thể dùng BCTC hợp
nhất để đánh giá tiềm năng, lợi nhuận của tập đoàn. Còn khi bàn đến chuyện nộp
thuế, phân phối lợi nhuận… thì phải căn cứ trên BCTC công ty mẹ, vì đây mới là
BCTC mang tính pháp lý. Tuy nhiên, UBCK đã hướng dẫn dựa vào BCTC hợp nhất (hoặc
mẹ nếu hợp nhất> mẹ) thì có lẽ doanh nghiệp đành phải làm theo hướng dẫn
này. Mình không biết UBCK đã có văn bản nào khác cập nhật về vấn đề này hay
chưa? Dựa trên phân tích ở trên, dùng BCTC của công ty mẹ làm cơ sở chia cổ tức
là hợp lý hơn.