Thứ Năm, 28 tháng 3, 2013

Trả cổ tức: tính theo báo cáo tài chính hợp nhất hay của công ty mẹ?


Hiện nay có khá nhiều doanh nghiệp niêm yết có công ty con & phải cùng lúc phát hành báo cáo tài chính riêng của công ty mẹ & báo cáo tài chính hợp nhất. Đọc & hiểu báo cáo tài chính hợp nhất có vẻ là 1 món ăn khó nuốt, kể cả đối với dân tài chính – đầu tư không chuyên về kế toán. Vậy báo cáo tài chính hợp nhất có ý nghĩa gì? Khi lợi nhuận của BCTC hợp nhất & BCTC công ty mẹ khác nhau thì cơ sở nào để công ty chia cổ tức?

Về vấn đề chia cổ tức, trước đây đã có tiền lệ của công ty Vinaconex (VCG) khi  quỹ lợi nhuận sau thuế trong BCTC hợp nhất năm 2009 là -72,94 tỷ đồng, trong khi  lợi nhuận sau thuế trong BCTC kiểm toán năm 2009 Công ty mẹ là 415,26 tỷ đồng. Rất nhiều nhà đầu tư thắc mắc là trường hợp này liệu doanh nghiệp có được chia cổ tức không? VCG cũng đã hỏi uỷ ban chứng khoán & nhận được trả lời bằng công văn số 508/UBCK-QLPH ngày 18/2/2011 nội dung chính như sau: (xem file đính kèm đầy đủ công văn)
“Về áp dụng các nguyên tắc trên để trả cổ tức, việc Tổng công ty thực hiện quyền của công ty mẹ để chi trả cổ tức phải căn cứ trên báo cáo tài kết quả hoạt động kinh doanh hợp nhất. Tuy nhiên, nếu kết quả hoạt động kinh doanh trên Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty mẹ nhỏ hơn trên báo cáo kết quả kinh doanh hợp nhất thì căn cứ trên báo cáo KQHD KD của công ty mẹ.”
Vì đã có công văn hướng dẫn nên các công ty khác nếu gặp trường hợp này mà cảm thấy lăn tăn thì vẫn phải làm đúng theo luật quy định. Tuy nhiên, công văn này vấp phải nhiều ý kiến trái chiều của các nhà đầu tư & các chuyên gia. Theo ông Bùi Văn Mai, Tổng thư ký Hội kiểm toán viên hành nghề Việt Nam (VACPA) cho biết: "BCTC hợp nhất không phải là BCTC mang tính pháp lý để xử lý các vấn đề tài chính như nộp thuế, phân phối lợi nhuận… mà phải căn cứ trên BCTC công ty mẹ, vì đây mới là BCTC mang tính pháp lý". Theo ông Mai, BCTC hợp nhất của một DN không phải thể hiện lãi/lỗ của DN đó trong năm tài chính, mà thể hiện thực trạng tài chính, kết quả hoạt động và các thay đổi tình hình tài chính của toàn bộ tập đoàn/hệ thống/nhóm công ty mẹ-con. Chính vì vậy, với BCTC hợp nhất, tình hình tài chính của Công ty mẹ không được thể hiện chính xác, mà chỉ có tác dụng xem xét sự phân bổ và sử dụng hiệu quả của toàn hệ thống. Do đó, ông Mai khuyến cáo: NĐT khi mua cổ phiếu của công mẹ thì nên tập trung chú ý vào tình hình tài chính thể hiện qua BCTC công ty mẹ, chứ không phải BCTC hợp nhất, vì đây mới là tài liệu thể hiện tình hình tài chính của DN mà họ đầu tư. Việc xem xét BCTC hợp nhất chỉ giúp NĐT có cái nhìn tổng quan về cả hệ thống.”
Anh Phạm Thứ Triệu cũng viết 1 bài rất hay về vấn đề này trên saga: http://saga.vn/Taichinh/Thitruong/22302.saga

Đây là vấn đề khá nặng về kiến thức kế toán nên thật khó để diễn giải 1 cách dễ hiểu cho người đọc phổ thông. Ý kiến cá nhân của mình là đồng ý 100% với nhận xét của ông Mai. Việc UBCK quy định chia cổ tức theo kết quả hợp nhất (hoặc là theo BCTC công ty mẹ nếu lợi nhuận công ty mẹ nhỏ hơn) là khá củ chuối và không logic với chuẩn mực kế toán. Chuẩn mực kế toán số 25 có quy định cách hợp nhất báo cáo tài chính. Hiểu 1 cách đơn giản, ở BCTC công ty mẹ, chúng ta xem các công ty con như là 1 khoản đầu tư dài hạn & chiếm 1 phần trong tài khoản 221- đầu tư vào công ty con. Các công ty con có lãi hay lỗ công ty mẹ sẽ được ăn chia theo phần trăm sở hữu.  Như ông Mai nói, BCTC hợp nhất không có tính pháp lý, nó không thể hiện tình hình tài chính của doanh nghiệp mà bạn đầu tư. BCTC hợp nhất chỉ cho ta bức tranh tổng thể về cả tập đoàn, khi tiến hành hợp nhất bằng cách cộng dồn các tài khoản tương ứng, kết hợp với loại trừ các giao dịch nội bộ, lãi các giao dịch nội bộ chưa thực hiện. Ví dụ công ty mẹ có lãi rất lớn nhưng chủ yếu chỉ là bán hàng cho công ty con. Nếu công ty con mua hàng từ mẹ & đã bán cho bên thứ 3 thì không sao, nhưng nếu vẫn chưa bán cho bên thứ 3 thì xem như chưa thực hiện. Trường hợp này ở BCTC công ty mẹ vẫn cho ghi nhận doanh thu, lợi nhuận nhưng khi lên báo cáo hợp nhất sẽ loại trừ, chỉ tính những doanh thu đã bán ra ngoài, không tính những khoản chỉ bán qua bán lại trong gia đình.

Trường hợp logic về tính lợi nhuận theo BCTC công ty mẹ ở trên chắc vẫn chưa giúp bạn hiểu ra được sự khác nhau giữa công ty mẹ và BCTC hợp nhất. Ta hãy chuyển từ việc chia lời sang việc thực hiện nghĩa vụ đóng thuế. Ví dụ 1 gia đình có 3 công ty A(mẹ) với 2 con là B, C tiền thuế mỗi công ty phải đóng là 50đ, 25đ & 0đ. Khi hợp nhất BCTC, cộng ngang cộng dọc loại trừ tứ tung, có thể tổng tiền thuế phải đóng sẽ là 62.5đ. Không lẽ tập đoàn lại đòi lại tiền ông thuế với lí do hợp nhất tui chỉ lãi 250đ nên đã đóng dư tiền thuế 12.5đ. Tất nhiên thuế không hoàn lại vì ông thuế chỉ túm 3 ông có tóc là A,B,C có đăng kí thành lập doanh nghiệp và dựa trên BCTC của 3 ông để đánh thuế thôi. Ông hợp nhất là ông nào, đâu có đăng kí là 1 pháp nhân với thuế. Tương tự, nếu hợp nhất ra số thuế phải đóng nhiều hơn, vậy tập đoàn lấy thêm tiền của A, B, hay C và mỗi ông lấy bao nhiêu để đóng thêm tiền thuế? Tất nhiên không ông nào chịu đóng thêm vì lợi nhuận tui có nhiêu đó, đâu thể bắt tui đóng nhiều hơn nghĩa vụ phải làm được. Đó là lí do vì sao BCTC hợp nhất không có giá trị pháp lý.

Túm lại, khi phân tích đầu tư thì bạn có thể dùng BCTC hợp nhất để đánh giá tiềm năng, lợi nhuận của tập đoàn. Còn khi bàn đến chuyện nộp thuế, phân phối lợi nhuận… thì phải căn cứ trên BCTC công ty mẹ, vì đây mới là BCTC mang tính pháp lý. Tuy nhiên, UBCK đã hướng dẫn dựa vào BCTC hợp nhất (hoặc mẹ nếu hợp nhất> mẹ) thì có lẽ doanh nghiệp đành phải làm theo hướng dẫn này. Mình không biết UBCK đã có văn bản nào khác cập nhật về vấn đề này hay chưa? Dựa trên phân tích ở trên, dùng BCTC của công ty mẹ làm cơ sở chia cổ tức là hợp lý hơn.

Chủ Nhật, 24 tháng 3, 2013

JPMorgan đã giúp Enron giấu nợ như thế nào?


Công ty Enron được thành lập vào năm 1985, với doanh thu đến 101 tỷ USD trong năm 2000. Họ từng là tập đoàn năng lượng hùng mạnh nhất Hoa Kỳ, hoạt động ở trên 40 nước. Tuy nhiên, sau khi bị phát hiện che dấu thua lỗ nợ nần, Cổ phiếu Enron từ đỉnh cao 90USD vào giữa năm 2000 đã tuột dốc không phanh xuống chỉ còn chưa tới USD vào cuối tháng 11-2001. Với tài sản lên tới 63,4 tỷ USD, Enron là vụ phá sản lớn nhất trong lịch sử Hoa Kỳ tính đến thời điểm đó. Mọi người đều biết công ty kiểm toán thuộc hạng big5 lúc bấy giờ là Arthur Andersen(AA) đã ăn tiền để giúp Enron đánh bóng BCTC của mình, khiến cho nhà đầu tư mất hàng tỷ USD và khoảng 20.000 nhân viên Enron bị mất việc làm. Nhưng có lẽ ít ai biết Enron đã giấu nợ như thế nào và các ngân hàng lớn như JPMorrgan & Citi bank đóng vai trò gì trong vụ gian lận kinh điển này.
Với 1 vụ vỡ nợ quy môn lớn đến 63.4 tỉ USD, SEC biết rằng 1 mình Enron & AA không đủ sức để che mờ khoảng nợ lớn đến như vậy, nhất định phải có sự tiếp tay của 1 gã khổng lồ nào đó. Tháng 7/2003, SEC cáo buộc JPMorgan Chase & CitiGroup giúp Enron giấu nợ bằng các khoản cho vay nguỵ trang, biến nợ thành lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh. Sau vụ này JP bị phạt 135 triệu USD, Citi bị phạt 120 triệu USD.  Theo cáo buộc này, JPMorgan Chase và Citigroup đã cung cấp cho Enron tổng cộng 8,3 tỷ USD để thực hiện 1 nghiệp vụ buôn bán khí ga phức tạp. Nội dung của giao dịch này như sau: Enron tham gia 1 hợp đồng Swap trả trước (Prepaid forward sales contracts) mới 1 doanh nghiệp tên là Mahonia. Enron nhận tổng 1 cục tiền & đồng ý giao khí gas trong tương lai cho Mahonia. Mahonia lại làm 1 hợp đồng tương tự, nhận 1 cục tổng tiền từ JP & đồng ý giao gas trong tương lai cho JP.  JP lại là cổ đông lớn sở hữu Mahonia, vì vậy rủi ro của công ty con Mahonia cũng là rủi ro của JP. JP hedge rủi ro này với Enron. Sau khi cấn trừ các nghiệp vụ này, Enron giao hàng cho Maho, Maho bán lại cho JP, JP lại bán lại hàng cho Enron, cuối cùng coi như Enron không phải giao hàng mà lại nhận được tổng 1 cục tiền doanh thu bán hàng từ Maho, trong khi đó chỉ phải trả tiền từng kì trong tương lai cho JP. Nói cách khác, nghiệp vụ này thực chất là JP cho Enron vay, Enron sẽ trả dần từng kì. Tuy nhiên nhờ thủ thuật trên, Enron không những không phải ghi nhận 1 khoản nợ từ JP mà còn được ghi nhận doanh thu bán hàng. Toàn bộ giao dịch phức tạp này được thể hiện ở hình dưới đây.

Trong quá trình kiểm toán, AA đã ngửi được có mùi gian lận từ nghiệp vụ này, nhưng với khoản lót tay kha khá từ Enron, họ đã lờ đi & không cảnh báo gì về rủi ro của nghiệp vụ này cho người đọc BCTC. Sau sự kiện này thì vụ Enron được đưa vào rất nhiều sách giáo khoa về kiểm toán, các nghiệp vụ cho vay của ngân hàng, bài học về quản trị doanh nghiệp, quản trị rủi ro…bla bla.  

Thứ Sáu, 22 tháng 3, 2013

Con đường trở thành CFA Charters Holder chông gai như thế nào?



Infographic này tóm tắt các bước phải làm để được đeo lon CFA Charter
Chặng đường đau khổ nhất là bạn phải vượt qua 3 kì thi, mỗi kì thi là 6h/ngày với các thử thách khác nhau.

+ Level 1: được tổ chức thi vào tháng 6 & tháng 12 hàng năm. Đề thi mỗi buổi là 120 câu trắc nghiệm, với 10 môn học bao quát hết những kiến thức cơ bản về tài chính & đầu tư. Nếu bạn đã học chuyên ngành liên quan đến kinh tế ở trường đại học thì kiến thức ở Level  1 cũng khá quen thuộc. Tuy nhiên, với lượng kiến thức nhiều và dàn trải nhiều môn, để trả lời hết 120 câu hỏi trong vòng 3h cũng không phải là dễ.

+ Level 2: chỉ được tổ chức vào tháng 6 hàng năm. Level 2 được xem là level khó nhất. Tuy số lượng câu hỏi chỉ bằng ½ level 1, nhưng với cách hỏi theo item sets, mỗi set là 1 đề bài dài & 6 câu hỏi trắc nghiệm. Nếu bạn không học kĩ, quên đúng phần kiến thức bị hỏi thì rất dễ làm sai hết nguyên 1 set & nếu vậy thì khả năng rớt rất cao. Level 2 có 10 môn học như level 1 nhưng rất nặng về tính toán & ghi nhớ công thức. Độ khó về kiến thức & rủi ro rớt của level 2 có thể gấp 3 lần level 1. Vì vậy chiến lược học để ghi nhớ & chiến lược thi cử rất quan trọng để đậu level 2.

+ Level 3: level này có thêm hình thức thi essay vào buổi sáng & 10 item sets trắc nghiệm ở buổi chiều. Đặc biệt với thí sinh Việt Nam thường viết essay không tốt nên level 3 là 1 thử thách đáng sợ nhất. Nhiều người thi xong đề essay buổi sáng nản quá & bỏ luôn kì thi buổi chiều.

Waa, tôi đã pass hết 3 level, vậy là được đeo lon CFA Charter rồi?
Không phải, sau khi pass hết 3 kì thi, bạn phải hội đủ thêm 1 số điều kiện nữa để trở thành CFA charter.
Cam kết tuân thủ đạo đức: nhiều candidate xem thường điều này, nhưng tuân thủ đạo đức là 1 vấn đề vô cùng quan trọng đối với CFA Institute. Thực tế là ở Việt Nam đã có 1 CFA Charter rất nổi tiếng  đã từng bị CFA Institute warning vì vấn đề không tuân thủ đạo đức theo chuẩn mực của CFA Institude.

Thành viên hiệp hội: để viết thêm 3 chữ CFA đằng sau tên bạn, bạn phải gia nhập thành viên hiệp hội CFA, lệ phí hàng năm là 275$. Do Việt Nam còn vướn 1 số thủ tục về thành lập hiệp hội nên hiện nay vẫn chưa có CFA society Việt Nam. Các CFA Charter phải gia nhập 1 hiệp hội khác ở Hồng Kong or Singapore…Nếu không đóng phí thành viên hàng năm thì không được đeo lon CFA nữa.

Kinh nghiệm làm việc: CFA chỉ xem xét những ai pass 3 level & có 4 năm kinh nghiệm trong ngành tài chính-đầu tư. Đây cũng là 1 thử thách cho nhiều người vì đã học xong 3 level, nhưng công việc không phù hợp nên không được CFA Institute chấp nhận. 

Người giới thiệu: bước cuối cùng sau khi đã hội đủ các điều kiện là bạn phải có 3 CFA Charter bảo lãnh, hoặc là 2 người, nhưng 1 trong 2 người đó là thành viên của hiệp hội tại quốc gia bạn muốn gia nhập. 
Kỉ lục gia trẻ CFA Charter trẻ tuổi nhất ở Việt Nam là anh Hà Trung Hiếu bởi khả năng học siêu tốc + kinh nghiệm làm việc (thực tập) trong quá trình du học + thời của a Hiếu CFA Institute chỉ yêu cầu 3 năm kinh nghiệm. Theo người viết được biết thì anh Hà Trung Hiếu đeo lon CFA lúc 23 tuổi. (Nếu a Hiếu có đọc bài này thì mong a confirm thông tin giúp em ạ)

Tốn bao lâu & bao nhiêu tiền để trở thành CFA Charter?

Điều này phụ thuộc vào việc bạn thi cử có hên không. Người giỏi & hên thì thi level 1 tháng 12, level 2 tháng 6, level 3 tháng 6 năm sau là xong hết. Người nào xui thì có thể thi mỗi level 2-3 lần mới pass. Số tiền bạn đóng cũng tuỳ thuộc vào số lần thi & thời gian đóng tiền. Đóng càng sớm thì phí thi càng rẻ. Tính ra mất khoảng 2500$-8500$.
Vì những điều kiện khắc nghiệt trên nên CFA luôn được xem là kì thì khó nhất trong lĩnh vực tài chính đầu tư. CFA Charter không chắc là siêu phàm, IQ trên 120, đầu tư hơn Buffet nhưng chắc chắn là người rất chăm chỉ, nổ lực & đam mê tài chính.

Thứ Ba, 19 tháng 3, 2013

[Giải trí] 10 lý do tại sao học CFA thú vị hơn Sex


Trời Sài Gòn đang chuyển sang mùa nóng, sau khi tan sở làm cốc bia lạnh với bạn bè, hoặc đi dạo mát, ăn uống buổi tối với người yêu thì quá tuyệt vời. Tiếc là sau khi tan sở bạn phải tiếp tục chiến đấu với 6 cuốn sách CFA dày cộm trong tiết trời nóng bức. Nhiều khi bức xúc muốn đốt sách đi chơi cho nhẹ nợ. Nếu bạn đang trong tình cảnh này thì cảm xúc sẽ rất giống tôi & giống nhiều Vfer khác ở giai đoạn nước rút này.  Nhiều nghiên cứu cho rằng việc học tập bằng nhiều xúc giác,  liên tưởng đến các hình ảnh sẽ làm não bộ ghi nhớ tốt hơn & giúp việc học thú vị hơn. Và đặt biệt khi liên tưởng đến các vấn đề liên quan đến Sex sẽ kích thích bộ não & giúp bộ não ghi nhớ tốt nhất.  Dưới đây là 10 điểm mà học CFA còn thú vị hơn cả Sex, tất nhiên chỉ là những lí do vui giúp các bạn học CFA thư giãn đôi chút để tiếp tục công đoạn nhồi nhét kiến thức.

10/ Bạn dễ dàng tìm được ai đó để học cùng
9/ Nếu đang học giữa chừng mà thấy đuối, bạn có thể tạm dừng, lưu lại chỗ đang học dỡ để khi nào khoẻ học tiếp ngay chỗ đó.
8/ Bạn có thể kết thúc buổi học sớm hơn thường lệ mà không cảm thấy có lỗi hay xấu hổ.
7/ Khi bạn mở 1 cuốn sách để học, bạn không phải lo lắng là đã có ai “bóc tem” cuốn sách trước hay chưa. Học lại cuốn sách người khác đã học cũng chẳng sao.
6/ Chỉ cần 1 ly cà phê là bạn có thể học suốt đêm.
5/ Bạn có học hết chương hay không thì cũng không bị mang tiếng “quấy rối sách vở”
4/ Bạn có thể vừa học CFA, vừa ăn, vừa xem tivi
3/ E không cảm thấy ngượng nghịu nếu bố mẹ bạn đột ngột vào phòng & thấy bạn đang học CFA
2/ Bạn không phải uống cạn ly bia để lấy tinh thần trước khi học.
1/ Nếu bạn không biết phải học thế nào, có thể nhờ bạn cùng phòng chỉ cho bạn.

Doanh nghiệp bất động sản ghi nhận doanh thu như thế nào?


-Về nguyên tắc chung theo chuẩn mực kế toán 14, Doanh thu bán hàng được ghi nhận khi đồng thời thỏa mãn năm 5 điều kiện sau:
+ Doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro và lợi ích gắn liền với quyền sở hữu sản phẩm hoặc hàng hóa cho người mua;
+ Doanh nghiệp không còn nắm giữ quyền quản lý hàng hóa như người sở hữu hàng hóa hoặc quyền kiểm soát hàng hóa;
+ Doanh thu được xác định tương đối chắc chắn;
+ Doanh nghiệp đã thu được hoặc sẽ thu được lợi ích kinh tế từ giao dịch bán hàng;
+ Xác định được chi phí liên quan đến giao dịch bán hàng.
Tuy nhiên, với  1 loại hàng hoá đặt biệt là bất động sản thì có phần phức tạp & dễ nhầm lẫn hơn so với bán các hàng hoá bình thường. Vì vậy với các nhà đầu tư cá nhân không nắm vững về nguyên tắc kế toán khó mà biết được 1 nghiệp vụ bán nhà, chung cư, từ khi khách hàng đặt tiền cọc mua nền, trả tiền theo tiến độ hợp đồng thì doanh nghiệp có được ghi doanh thu không? Nếu cty đã nhận tiền cọc trước nhưng đến khi bàn giao nhà mới được ghi doanh thu thì sẽ ảnh hưởng đến cashflow của cty BĐS như thế nào?
Nếu bạn quan tâm đến BCTC các doanh nghiệp BĐS niêm yết thì có thể thấy hầu hết các báo cáo sau kiểm toán đều phải điều chỉnh giảm doanh thu rất nhiều. Như vậy không chỉ nhà đầu tư cá nhân, mà cả những người làm trong ngành (không hiểu vô tình hay cố ý) vẫn hạch toán sai doanh thu bất động sản. Tiêu biểu nhất đó là trường hợp của Petroland ở báo cáo năm 2011, khi Petroland dùng thủ thuật thay đổi phương pháp kế toán “xoành xoạch” giữa các năm để tăng doanh thu lợi nhuận cho năm 2011, biến lỗ thật thành lãi giả. (Tất nhiên Petroland đã tự “kiểm điểm”, nghiêm túc rút kinh nghiệm  về việc “chậm công bố thông tin”)
Đối với bất động sản thì có 2 phương pháp ghi nhận doanh thu là POC (Percentage of completion) & ghi nhận 1 lần sau khi đã bàn giao sản phẩm cho khách hàng. Nhưng cần phân biệt rõ sản phẩm bất động sản là loại nào để áp dụng phương pháp ghi nhận doanh thu cho đúng. Không được áp dụng song song cả 2 phương pháp cho mọi trường hợp. Đối với các doanh nghiệp làm chủ đầu tư xây dựng dự án, chung cư (ví dụ như TDH chỉ chuyên xây chung cư để bán) chỉ được ghi nhận doanh thu khi đã xây dựng xong & làm biên bản chuyển giao nhà cho khách hàng. Lúc đó mới đủ cơ sở để kết luận là doanh nghiệp đã chuyển giao phần lớn rủi ro & lợi ích cho người mua. Nhiều doanh nghiệp dạng này cố tình làm tăng doanh thu bằng cách ghi nhận doanh thu theo POC, hoặc tệ hơn là theo tiến độ thanh toán, điều này là sai nguyên tắc ghi nhận doanh thu của chuẩn mực 14. Khoản tiền khách hàng trả trước chỉ được ghi vào “tài khoản người mua trả tiền trước” , hoặc “doanh thu chưa thực hiện”.
Đối với trường hợp doanh nghiệp là nhà thầu xây dựng, thi công công trình theo hợp đồng thì phải ghi nhận doanh thu theo tỉ lệ khối lượng xây dựng hoàn thành (POC) theo quy định tại chuẩn mực 15. Phần trăm hoàn thành có thể xác định bằng cách xây dựng chi phí dự toán dựa trên doanh thu có thể đạt được theo hợp đồng. Từ đó, doanh nghiệp lấy chi phí xây dựng thực tế chia cho tổng chi phí dự toán để biết được mình đã hoàn thành bao nhiêu % tiến độ thi công.
Trong bối cảnh thị trường bất động sản đóng băng những năm gần đây, các công ty BĐS thường dùng các thủ thuật đẩy mạnh doanh thu cuối năm để làm đẹp báo cáo tài chính. 1 trong các thủ thuật thường được doanh nghiệp BĐS áp dụng đó là cho phép khách hàng nhận nhà khi mới chỉ trả 50% tiền theo tiến độ, kèm theo điều khoản có thể trả lại nhà nếu không vừa ý. Đặt biệt nếu người mua là các bên có liên quan của doanh nghiệp thì thủ thuật này càng khó bị phát hiện. Vì vậy khi phân tích BCTC các doanh nghiệp BĐS, nếu thấy doanh thu tăng mạnh, đặc biệt đột biến ở tháng cuối năm thì bạn cũng chớ nên quá vui mừng, hãy phân tích thật kĩ doanh thu đến từ nội lực doanh nghiệp, hay chỉ là các chiêu trò kế toán nhé!

Chủ Nhật, 17 tháng 3, 2013

Tại sao nên đầu tư vào thị trường mới nổi (Emerging market)


Đối với nhà đầu tư cá nhân (đặt biệt ở VN) ít ai nghĩ đến việc đầu tư ra nước ngoài. Nhưng với các nhà đầu tư tổ chức trên thế giới, đầu tư vào các thị trường mới nổi (Emerging market) sẽ giúp họ có cơ hội tăng mạnh lợi nhuận cũng như phân tán được rủi ro. Nhưng năm gần đây, suất sinh lời ở thị trường mới nổi luôn cao hơn các nước phát triển. Từ năm 1987-2007, tính theo trung bình nhân (Geometric mean) suất sinh lời trung bình ở thị trường các nước phát triển là 8.9%, trong khi đó ở các nước mới nổi là 14.5%. Tuy nhiên, volatility ở thị trường mới nổi cao hơn hẳn ở các nước phát triển.
Nếu chỉ đứng riêng lẽ, đầu tư vào các nước mới nổi là rất rủi ro & khó dự đoán được bởi những lí do sau:
+ Chính trị & xã hội bất ổn
+ Cơ sở hạ tầng chưa phát triển
+ Nền giáo dục còn yếu kém
+ Tình trạng hối lộ, tham nhũng
Nhưng  khi xét trên góc độ quản lí danh mục đầu tư, thị trường các nước mới nổi có tương quan rất thấp so với các nước phát triển nên sẽ giúp đa dang hoá danh mục đầu tư, giảm rủi ro chung cho danh mục & tăng lợi nhuận kì vọng.  Các nhà đầu tư & phân tích đặt cược vào thị trường mới nổi vì tiến trình đô thị hoá, tự do hoá & hội nhập sẽ khiến dòng vốn nước ngoài đổ vào TT mới nổi nhiều hơn, tận dụng các lợi thế về nhân công & tài nguyên thiên nhiên ở đây. Hình vẽ dưới đây thống kê lợi nhuận của các quỹ đầu tư Mỹ khi đầu tư vào Emerging market từ năm 2003 đến nay.

 Nếu may mắn chọn đúng thời điểm & quốc gia, bạn có thể sẽ có suất sinh lời hơn 100%. Ở TTCK Việt Nam, đối với nhà đầu tư cá nhân ít vốn, chấp nhận rủi ro cao thì mua 1 cổ phiếu penny cũng có thể kiếm được hơn 100% 1 năm. Nhưng đối với nhà đầu tư tổ chức, do gặp nhiều giới hạn về quản trị rủi ro, tiêu chí chọn cổ phiếu…nên mỗi năm lãi 30% đã là quá tốt. Tuy nhiên, lợi nhuận cao đi kèm rủi ro cao. Nếu xui xẻo đầu tư vào Trung Quốc  hay Nga năm 2008 thì các quỹ ở Mỹ đã mất hơn 50% vốn.
Lợi nhuận khi đầu tư vào Emerging markets chịu tác động bởi những yếu tố như sức mua của đồng tiền nước đó, lạm phát, thanh khoản & chính sách của chính phủ các nước mới nổi trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Vì vậy, các Active Fund Manager hoàn toàn có thể thành công khi đầu tư vào Emerging market nếu họ hiểu và nhận diện được những yếu tố nào sẽ tác động đến các nước mới nổi. 

Chủ Nhật, 10 tháng 3, 2013

Chỉ số chứng khoán – yếu tố rất quan trọng đối với đầu tư tài chính


Các chỉ số chứng khoán nổi tiếng trên thế giới thường được ra đời nhờ các tờ báo lớn, ví dụ như Wall Street Journal tạo nên chỉ số Dow Jones, hay chỉ số Nikkei của Nhật Bản, chỉ số DAX của Đức. Các chỉ số này chỉ tính dựa trên giá các cổ phiếu trong rổ, không tính khối lượng vào. Mặc dù chỉ số chứng khoán đã có ở nhiều quốc gia từ trước những năm 1960, đến năm 1968 mới có 1 chỉ số chứng khoán có thể dùng làm tham chiếu (benchmark)để tính hiệu quả đầu tư. Đó là chỉ số Morgan Stanley Capital International (MSCI) được xây dựng bởi Capital Group. Chỉ số này ưu việt hơn các chỉ số trước đó bởi nó tính theo market-cap weighting, công khai các thành phần của chỉ số cũng như cung cấp số liệu quá khứ của các cổ phiếu trong chỉ số. Tuy nhiên, nhược điểm của chỉ số này là nó chỉ bao gồm 60% vốn hoá thị trường của những quốc gia & ngành có trong chỉ số.
Khi quản lý danh mục đầu tư, bạn cần phải có 1 chỉ số nào đó làm benchmark để đánh giá kết quả của Fund manager. Một index được tạo thành từ càng nhiều ngành & công ty trên thị trường thì nó càng phản ánh đúng diễn biến thị trường. Các tính index cũng là 1 đặc điểm vô cùng quan trọng của 1 chỉ số chứng khoán. Ba phương pháp cơ bản đó là tính tỉ trọng theo giá (price weighted), theo giá trị (Value weighted) & tỉ trọng tất cả đều bằng nhau (equal weighted).
Mỗi cách tính chỉ số bị thiên lệch theo những cách khác nhau. Đối với Price weighted, giả sử Vnindex được tính theo Price weighted thì cổ phiếu GMD tăng 3% chỉ có tác động vào Vnindex bằng 1% tăng giá của MSN, vì giá MSN cao gấp 3 lần GMD. 1 chỉ số nổi tiếng dùng phương pháp price weighted này là Nikkei 225, nhưng nó đã bỏ những cổ phiếu có giá rất cao ra khỏi index để tránh việc index bị bóp méo bởi các cổ phiếu giá cao này.  
Đối với value weighted index, giống như cách tính chỉ số Vnindex hiện nay, ta hay thấy những phiên “xanh vỏ đỏ lòng”, đội lái dùng các mã vốn hoá cao để đỡ index “xả hàng”… đó là vì tính chỉ số theo vốn hoá thị trường sẽ bị thiên lệch bởi các cổ phiếu có vốn hoá lớn. 1 nhược điểm nữa của loại chỉ số này là nó không điều chỉnh cho lượng cổ phiếu free float ( những cổ phiếu trôi nổi mà nhà đầu tư có thể mua được). Ví dụ ở Việt Nam, vốn hoá của các index thường cao hơn thực tế, cao hơn giá trị mà nhà đầu tư có thể mua bán được. Các công ty lớn hoặc cùng chung 1 họ PV hay VC, SD thường nắm giữ 1 lượng lớn cổ phiếu của nhau. Như vậy không phải tất cả cổ phiếu của những công ty niêm yết đều có thể đem ra trade được. Chỉ số gặp tình trạng này đã tính double giá trị của 2 công ty nắm giữ cổ phiếu của nhau. Vì vậy 1 chỉ số muốn phải ánh đúng vốn hoá của toàn thị trường chỉ nên tính phần cổ phiếu có thể trade được (free float).
Thực tế, nhiều cao thủ TA ở VN đã tự xây dựng 1 chỉ số chứng khoán riêng cho mình để loại bỏ hiệu ứng của nhóm các cổ phiếu vốn hoá lớn ra. Cách làm này được áp dụng & hướng dẫn làm đầu tiên trên internet là từ anh Vietcurrency (theo người viết biết) dựa trên công cụ composite Index của Amibroker.

Thứ Sáu, 8 tháng 3, 2013

Compound Annual Growth Rate (CAGR)-những điều cần biết


Thỉnh thoảng khi đọc các báo cáo hoặc bài viết tiếng Anh về thị trường, tài chính, bạn sẽ gặp thuật ngữ Compound Annual Growth Rate (CAGR)- tạm dịch là tỉ lệ tăng trưởng kép hàng năm ( dịch tối nghĩa quá). Ví dụ như đoạn này:” The non-food retail sales grew at a robust CAGR of nearly 22% during 2005-2008” (trích báo cáo của VCSC) người đọc hiểu là sell ngành này tăng trưởng 22% trong giai đoạn 2005-2008, nhưng tính thế nào để ra được con số 22% thế này?
CAGR là phép tính tỉ lệ tăng trưởng smooth hơn, giống như tính suất sinh lời theo nguyên tắc ghép lãi. Giả sử bạn đầu tư chứng khoán 1 tỉ ở năm 2012, & cuối năm 2012 tài khoản đã tăng lên 3 tỉ, lãi 200%. Nhưng năm 2013, thị trường đi xuống, bạn lỗ lại 50%, cuối năm 2013 chỉ còn 1.5 tỉ. Vậy suất sinh lời trong giai đoạn này là bao nhiêu? Nếu trung bình đơn giản, năm đầu lãi 200%, năm 2 lỗ 50%, vậy trung bình 2 năm lãi= (200-50)/2= 75% không phải ánh đúng suất sinh lời thực. Trong trường hợp này, bạn đã biết giá trị ban đầu & giá trị tương lai, cần tính lãi suất nào để biến khoảng 1 tỉ thành 1.5 tỉ trong 2 năm ( giống như tính IRR của dự án). Công thức tính CAGR như sau: CAGR  =   (FV / PV)^1 / Y  -  1 
Áp công thức vào ví dụ trên tính ra CAGR bằng 22.47%. Hình vẽ dưới đây cho thấy độ mượt của CAGR

Nhà đầu tư có thể dùng CAGR để so sánh 2 cổ phiếu tăng trưởng như thế nào trong 1 khoảng thời gian nhất định. Tuy nhiên, lợi nhuận đầu tư biến động rất mạnh, điểm yếu của CAGR là nó không thể hiện được biến động của khoảng đầu tư. Ví dụ trên, 1 nhà đầu tư có suất sinh lời 22.47% trong 2 năm có vẻ ổn, nhưng nếu biết mức độ biến động lợi nhuận của anh ta lớn như vậy thì cũng đáng lo ngại. Hoặc 1 công ty tuy CAGR lợi nhuận cao nhưng nếu biến động quá lớn giữa các năm sẽ khiến nhà đầu tư hoài nghi về sự ổn định của business model
1 điểm yếu nữa của CAGR là nó rất nhạy cảm với việc bạn lựa chọn thời điểm bắt đầu để tính CAGR. 1 fund manager có thể khoe rằng anh ta có CAGR rất ấn tượng, 50% trong 2 năm qua. Nhưng thực tế, con số 50% là do a ta chọn thời điểm thị trường ở đáy để tính. Nếu chọn thời gian là 5 năm thì có thể CAGR của FM này sẽ âm vì trót mua ở đỉnh cao chót vót, mua đáy chạy đỉnh vài lần vẫn chưa hoà vốn được.      

Thứ Tư, 6 tháng 3, 2013

Có nền tảng kiến thức & đang làm việc trong lĩnh vực tài chính sẽ giúp bạn thi CFA tốt hơn?


Nhiều bạn học CFA lo lắng rằng mình không làm việc trong ngành, lại học Ngoại Thương, Quản trị kinh doanh…không liên quan đến tài chính thì thi CFA liệu có ổn không?
Dựa vào kết quả thi CFA tháng 12-2012, 1 khảo sát của trang web 300hours về background & nghề nghiệp hiện tại của các ứng viên CFA & kết quả hết sức thú vị. Tỉ lệ đậu CFA có tương quan thế nào với những người làm việc trong ngành, có nền tảng tài chính so với những người không có những lợi thế đó?
Đồ thị trên chia số người thi CFA thành 4 nhóm: Làm trong ngành & có nền tảng tài chính,  chỉ làm trong ngành tài chính, chỉ học về tài chính & không làm việc cũng ko có nền tảng kiến thức tài chính.

Theo đó, những người không biết tí gì về tài chính trước khi học CFA có tỉ lệ đỗ cao hơn 6% so với những người đã được học về tài chính trước đó, và gần bằng những người làm việc trong lĩnh vực tài chính. Ngược lại, những người đã có bằng cử nhân kinh tế, tài chính nhưng không làm trong ngành thì lại có  tỉ lệ đỗ thấp nhất. Nguyên nhân có thể là do họ chủ quan với kiến thức sẵn có, lại không ứng dụng kiến thức vào công việc nên họ không có sự chuẩn bị tốt nhất cho kì thi.
Cuộc khảo sát còn chỉ rõ ra môn nào là điểm mạnh, môn nào khiến các nhóm thí sinh kia rớt nhiều nhất. Theo đó:
Nhóm vừa làm vừa học tài chính: tỉ lệ đỗ cao đều ở tất cả các môn
Nhóm chỉ làm trong ngành: tệ nhất là môn Fixed income, Portfolio Management, Quantitative Methods. Hơi tệ môn Economics.        
Nhóm chỉ có học về tài chính: rất mạnh ở môn Fixed Income & Quantitative Methods, nhưng hơi yếu ở các môn còn lại. Điều này cho thấy không phải cứ được học đại học chuyên ngành tài chính từ trước là thi CFA ngon lành.
Nhóm không biết gì về tài chính: yếu các môn Fixed Income & Quantitative Methods nhưng rất giỏi môn Economics, Portfolio Management, &  Alternative Investments. Thực tế mình có nhiều bạn học Ngoại Thương, Kinh tế đối ngoại, không biết nhiều về tài chính nhưng học rất thông minh & chăm chỉ. Kết quả thi đều đậu rất cao (9 môn trên 70%), mình thuộc nhóm vừa có background, vừa làm trong ngành nhưng thi cũng chỉ vừa đủ lết qua vạch vôi.
Túm lại, học & thi CFA thì điều quan trọng nhất là quyết tâm & học hành chăm chỉ. Được làm việc trong ngành hoặc biết tài chính từ trước cũng là 1 lợi thế, nhưng không quyết định được việc bạn sẽ đậu. Ngược lại, không background, không làm trong ngành nhưng đam mê, quyết tâm cao độ, học hành nghiêm túc  thì ngày đeo lon CFA Charters Holder sẽ không xa xôi!