Thứ Tư, 6 tháng 11, 2013

Walter Schloss: học trò thành công nhất của Benjamin Graham

Mọi người đều biết đến cha đẻ của trường phái đầu tư giá trị là Graham. Buffett áp dụng 85% trường phái Graham và 15% trường phái Fisher để trở thành nhà đầu tư thành công nhất mọi thời đại (vì Ông dùng 15% độc chiêu của môn phái & sáng tạo ra trường phái riêng nên tôi không gọi Buffett là học trò thành công nhất của Graham) . Còn Schloss, Ông gần như áp dụng 100% chỉ bảo từ người thầy Graham để trở thành 1 nhà đầu tư giá trị vĩ đại, từng được Buffett gọi là “superinvestor”  trong các bức thư gửi cổ đông, cũng như trong các cuộc trò chuyện về đầu tư.

Không giống như Buffett, Schloss thường đa dạng hóa danh mục lên đến trên dưới 100 cổ phiếu. Thành tích của Ông là đem về trung bình cho các nhà đầu tư 15.3% trong suốt 47 năm (1955-2002), gấp đôi so với con số 7% return cuả chỉ số S&P. Dưới đây là 1 số điểm nổi bậc trong cuộc đời đầu tư của Walter Schloss:

Ông chỉ tốt nghiệp cấp 3 và không học đại học.
Năm 1934, Walter tròn 18 tuổi & bắt đầu làm việc tại Wall Street với vị trí binh bét trong 1 brokerage house. Nhiệm vụ của Ông chỉ là giao giấy đặt lệnh của nhà đầu tư & vận chuyển cổ phiếu lại cho họ (thời này chưa trade online). Ông rất đam mê đầu tư, & được 1 Đại Bàng phòng research trong firm(Mr. Erpf) chỉ bí kíp:“ mày muốn học đầu tư thì hãy đọc sách Securities Analysis của Graham cho thật kĩ. Đến khi hiểu mọi điều trong sách này là đủ, khỏi cần học ai và đọc thêm sách nào khác”.
Năm 1940 khi chiến tranh thế giới II đang diễn ra ác liệt, Ông quyết định  nghỉ làm để gia nhập quân đội chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Vài năm ở quân đội đã dạy Ông rất nhiều điều về đầu tư “ tôi học được rằng Tôi có thể sống sót ở TTCK, cũng giống như việc sống sót trên chiến trường, và đừng để mất tiền”.
Trong quân ngũ, ông có viết CV gửi cho Graham. Khi 1 analyst trong firm của Graham nghỉ, Graham đã mời Schloss vào thế chỗ ngày 2/1/1946 với mức lương 50 đô 1 tuần. Làm việc với Graham 10 năm, Schloss thấm nhuần tư tưởng của Graham và chỉ chuyên săn hàng net-net (cổ phiếu bán dưới net-net working capital).
Năm 1955, khi Graham giải nghệ về hưu, Schloss quyết định mở 1 quỹ riêng quản lý 100,000$.
Triết lý đầu tư của Schloss:
“Chúng tôi chỉ mua cổ phiếu rẻ”
Theo phong cách đầu tư giá trị của Graham suốt cuộc đời đầu tư của Ông.
Ông rất ít khi nói chuyện với lãnh đạo công ty bởi vì họ thường phóng đại performance & ảnh hưởng đến đánh giá của Ông. Vì vậy Schloss chỉ quan tâm đến số liệu báo cáo tài chính. Đặt biệt, Ông chú ý đến Balance sheet nhiều hơn báo cáo kết quả kinh doanh.
Ông thường chọn cổ phiếu có P/B & P/E thấp, ít nợ.
Ông thích cổ phiếu có chu kì và thường nghiên cứu về chu kì lợi nhuận của công ty trong 1 khoảng thời gian dài. Ông rất quan tâm đến balance sheet vì tài sản công ty thường ít biến động bằng lợi nhuận hàng năm.
Ông không thích mất tiền, vì vậy toàn chọn hàng giá rất rẻ và đa dạng hóa danh mục từ 60-100 cổ phiếu. Thời gian nắm giữ của Ông thường là 4 năm. Theo Ông, rất nhiều người học hỏi phong cách của Buffett và mơ ước đầu tư giỏi như Buffett. Nhưng nên nhớ rằng Buffett không chỉ phân tích cổ phiếu giỏi, mà Ông còn rất cao thủ trong việc đánh giá con người, đánh giá ban lãnh đạo & business. Ông biết mình thiếu những tố chất giống Buffett, nên có bắt chước cách đầu tư của Buffett cũng không thành công được . Vì vậy Ông chọn hướng đi riêng, phù hợp với tính cách và sở trường của Ông.

Nhà đầu tư huyền thoại này qua đời năm 2012 ở tuổi 95. 
Performance của Ông

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2013

Nên nắm giữ bao nhiêu cổ phiếu trong danh mục?

Dân đầu tư ai cũng biết nguyên tắc “ không nên bỏ tất cả trứng vào chung 1 giỏ”. Nhiều nghiên cứu đã chứng minh đa dạng hóa danh mục sẽ giúp bạn hạn chế rủi ro mất tiền. Nhưng không phải ai cũng đồng ý với quan điểm trên. Triết lý của người giàu thứ 2 trong lịch sử thế giới (đã tính trượt giá lạm phát), ông vua thép Andrew Carnegie:” Hãy biết tập trung năng lượng, tâm trí và vốn liếng… Người đàn ông thông minh sẽ đặt mọi quả trứng anh ta có vào trong một chiếc giỏ và trông chừng nó.” Còn các nhà đầu tư lừng lẫy trên thế giới, như Buffett, Fisher, Graham…họ bỏ trứng vào bao nhiêu giỏ?

Hãy bắt đầu từ cách bỏ trứng của Ben Graham- người khai sinh ra trường phái đầu tư giá trị. Trong chương 5 của quyển “ Nhà đầu tư thông minh”, ông khuyên chúng ta nên đa dạng hóa danh mục 1 cách vừa phải, ít nhất 10 cổ phiếu & tối đa 30 cổ phiếu trong danh mục. Những công ty đầu tư vào cần phải lớn, nổi bậc & có tình hình tài chính ổn.
Năm 1952, Harry Markowitz ủng hộ quan điểm của Graham và cho rằng nếu chúng ta tập trung quá nhiều vốn vào vài mã cổ phiếu thì sẽ không hiệu quả & nhiều rủi ro. Không dừng lại ở đó, Ông còn mô hình hóa quá trình lựa chọn danh mục đầu tư  để cho thấy một cách chính xác làm thế nào nhà đầu tư có thể làm giảm độ lệch chuẩn của lợi nhuận danh mục cổ phiếu của mình bằng cách chọn các cổ phiếu không biến thiên cùng với nhau. Nghiên cứu này còn giúp Ông đoạt giải Nobel năm 1990.
Ngược lại với 2 đại cao thủ này,năm 1934 John Maynard Keynes cho rằng phương pháp đầu tư đúng đắn là bỏ 1 số tiền lớn vào 1 số ít doanh nghiệp mà chúng ta hiểu rõ về nó: “ sẽ là sai lầm nếu bạn cho rằng có thể hạn chế rủi ro bằng cách rải tiền vào quá nhiều doanh nghiệp mà bạn chẳng hiểu gì về nó, và chẳng có lí do nào để tự tin vào tương lai của doanh nghiệp đó.” Theo Keynes, tại 1 thời điểm mà đầu tư trên 3 cổ phiếu là quá nhiều. Tốt nhất nên gửi trọn niềm tin vào 1-3 cổ phiếu mà bạn tự tin nhất.
Trong thư gửi cổ đông Berkshire Hathaway năm 1991, Buffett ủng hộ quan điểm của Keynes và cho rằng thật sai lầm nếu dạy các nhà đầu tư phải đa dạng hóa để giảm thiểu rủi ro. Sự nguy hiểm của việc bỏ trứng vào quá nhiều giỏ đó là bạn không thể quan sát tất cả trứng của bạn trong nhiều giỏ được. Buffett đã học được từ Fisher rằng:” mua nhiều cổ phiếu mà không bỏ thời gian ra để hiểu cặn kẽ business của những doanh nghiệp đó còn rủi ro hơn nhiều so với danh mục tập trung”. Trong thư gửi cổ đông năm 1993, Ông tiếp tục ủng hộ danh mục tập trung vài cổ phiếu khi đưa ra quan điểm “nếu bạn là nhà đầu tư có hiểu biết, có thể hiểu được business và tìm được 5-10 công ty tốt với mức giá hợp lí có lợi thế cạnh tranh lâu dài, lúc này thuyết đa dạng hóa chẳng còn ý nghĩa gì nữa. Trái lại nó còn làm giảm lợi nhuận của bạn.”2 cao thủ nhất đẳng Buffett và Charlie mỗi năm chỉ chọn 1 công ty để mua. Sau nhiều năm chinh chiến, đôi bạn già này thấy rằng trong cuộc đời đầu tư quá khó để có thể đưa ra hàng trăm quyết định thông minh sáng suốt. Vì vậy 2 Ông dành toàn bộ kinh nghiệm, thời gian & trí tuệ của mình lọc trong hàng trăm cổ phiếu tiềm năng, chỉ chọn 1 cổ phiếu ưng ý nhất để đầu tư.  
 Seth Klarman viết trong cuốn “Margin of safety” cũng trình bày quan điểm này của Buffett, nhà đầu tư hiểu thật nhiều về 1 cổ phiếu & tự tin nắm giữ nó sẽ tốt hơn là mua nhiều cổ phiếu & biết mỗi công ty 1 chút. Số lượng cổ phiếu trong danh mục mà Klarman khuyến nghị là từ 10-15 cổ phiếu.

Tóm lại, số lượng cổ phiếu tối ưu tại 1 thời điểm theo sự chỉ dạy của các đại cao thủ đầu tư trên thế giới như sau:
Ben Graham: 10-30 công ty lớn, có tiềm năng & tài chính tốt.
John Keynes : 2-3 cổ phiếu thôi, nhưng hiểu thật kĩ trước khi xuống tiền.
Warren Buffett: 5-10 cổ phiếu, hiểu về lợi thế cạnh tranh dài hạn của doanh nghiệp & mua với giá hợp lí.
Seth Klarman: 10-15 cổ phiếu, biết ít nhưng mà chất. Biết mỗi thứ 1 ít thì cũng như không, vì ai cũng chém gió được.
Cá nhân e thì danh mục chỉ gồm 1-2 cổ phiếu thôi, không phải vì e hiểu doanh nghiệp nên không đa dạng hóa, mà vì vốn bé quá, mua 1 phát tất tay, buy and pray cho nhanh, khỏi đa dạng hóa mất công đặt lệnh.

Còn theo các bạn, nếu có trong tay 1 tỉ đồng trở lên thì bạn sẽ nắm giữ bao nhiêu cổ phiếu?   

Chủ Nhật, 27 tháng 10, 2013

Charlie Munger- phó tướng của Buffett

Charile Munger là 1 tên tuổi lớn xứng đáng nằm trong ngôi đền huyền thoại của các nhà đầu tư giá trị. Kể từ khi làm việc chung với W. Buffett từ năm 1959, Ông luôn là cánh tay phải đắc lực của WB, giúp WB bổ sung khuyết điểm rất nhiều & góp phần xây dựng đế chế Berkshire Hathaway hùng mạnh như ngày nay. Lão tướng Charlie Munger năm nay 89 tuổi, hiện là chủ tịch của tập đoàn tài chính Wesco và đồng thời là phó chủ tịch Berkshire Hathaway, với gia tài trị giá 1.2 tỉ USD (9/2013).
Dưới đây là chiến tích của cá nhân Charlie giai đoạn 1962-1975 (không có sự trợ giúp của Buffett)


Từ năm 1962-1975 Munger kiếm được trung bình 19.8% mỗi năm, trong khi đó chỉ số DJ chỉ tăng trung bình 4.9%. Năm 2002, Ông quản lý danh mục đầu tư của the Daily Journal trị giá 4.3 triệu đô, đến năm 2012 danh mục này đã tăng 19 lần (76.7 triệu $).

Munger sinh ở Omaha ngày 1/1/1924. Ông từng học toán ở University of Michigan & tốt nghiệp trường luật Harvard năm 1948. Sau đó Charile bắt đầu tập trung vào đầu tư. Giai đoạn đầu đời của Charile là 1 tấm bi kịch. Ông lập gia đình năm 21 tuổi (sớm quá, chắc bác sĩ bảo cưới). Cuộc hôn nhân chỉ kéo dài 8 năm & đổ vỡ, người vợ lấy hết gia tài của Ông. Charlie cùng cậu con trai 8 tuổi Teddy Munger rời khỏi nhà với 2 bàn tay trắng. 1 năm sau, Teddy qua đời vì căn bệnh ung thư, Charile sụp đổ vì mất tất cả. Không những vậy, 1 con mắt của ông bị hỏng vĩnh viễn. Năm 35 tuổi, Ông đi bước nữa, vài đến giờ Ông đã có  đứa con & 1 đàn cháu chắt đủ lập vài đội bóng. Năm 25 tuổi lương hàng năm của Ông là khoảng 30,000 Đô, còn hiện nay gia tài Ông đã hơn 1 tỉ USD. Năm 69 tuổi, Munger đã năm trong top 400 người giàu nhất thế giới.

Cũng giống như Buffett, Munger rất rộng rãi trong việc quyên góp, từ thiện bằng cả tiền mặt và cổ phiếu. Mặt dù bỏ nghề luật từ rất sớm nhưng Ông vẫn đóng góp số cổ phiếu trị giá 43.5 triệu USD cho khoa luật của trường Stardford để tạo điều kiện học tập tốt hơn cho sinh viên. Năm 2007, ông cũng quyên góp 3 triệu USD cho University of Michigan Law School.
    
Về triết lý đầu tư, Ông cũng đầu tư theo trường phái giá trị của Graham, tập trung vào các business undervalued và có economic moats. Một số câu nói nổi tiếng của Charile:
“Tất cả những nhà đầu tư thông minh là nhà đầu tư giá trị- kiếm được nhiều tiền hơn số tiền bạn đã trả. Bạn phải định giá được business để có thể định giá cổ phiếu”
“Mỗi ngày, hãy cố gắng trở nên sáng suốt hơn một chút so với lúc bạn mới ngủ dậy”
“ Trong cả cuộc đời, tôi chưa biết một ai thông minh mà lười đọc sách-không một ai! Bạn sẽ kinh ngạc nếu biết tôi & Buffett đọc nhiều như thế nào”
“Đam mê và tài năng bẩm sinh, điều gì quan trọng hơn? Mọi người ở Berkshire đều có một niềm đam mê đặc biệt với công việc của họ. Với tôi, đam mê quan trọng hơn sự thông minh.”
“ Đừng làm việc với người bạn không ngưỡng mộ & không muốn làm việc chung”
 “ mua 1 công ty tuyệt vời với mức giá hợp lý tốt hơn nhiều lần so với 1 công ty bình thường với mức giá tuyệt vời”


Thứ Ba, 22 tháng 10, 2013

Thị trường có hiệu quả?

 Hầu hết các học thuyết tài chính hiện đại đều dựa trên giả định thị trường hiệu quả: thị trường đã phản ánh đầy đủ, chính xác & ngay lập tức tất cả các thông tin có thể có được vào giá chứng khoán. Tuy nhiên, Efficient market hypothesis (EMH) không được chấp nhận tuyệt đối. Từ ngày EHM được khai sinh, có rất nhiều nghiên cứu để ủng hộ và phản đối thuyết này.

Trong 1 bài viết về EMH trên Financial Time năm 2009, Thaler nhận xét rằng “ giá chứng khoán luôn đúng” và “ không có bữa ăn nào miễn phí”. Ngụ ý của Thaler rằng giá chứng khoán đã phản ánh mọi thông tin của thị trường, và rất có để các nhà đầu tư có thể đánh bại thị trường năm này qua năm khác. Ngoại trừ những nhà đầu tư đặc biệt siêu cấp như Buffett thì hầu hết đều thua thị trường nếu xét trong 1 thời gian dài.
Khái niệm bước đi ngẫu nhiên đã có từ đầu thế kỷ 20, nhưng đến năm 1970, Fama mới định nghĩa cụ thể & dễ hiểu về EMH. Ông đưa ra 3 khái niệm của thị trường hiệu quả: Dạng yếu, dạng khá mạnh & mạnh. EMH dạng yếu giả định rằng mọi thông tin quá khứ về giá & khối lượng đã phản ánh đầy đủ vào giá chứng khoán. Vì vậy nếu thị trường ở dạng hiệu quả yếu, phân tích kĩ thuật không thể kiếm lợi nhuận phi thường được. Dạng mạnh vừa giả định rằng mọi thông tin quá khứ và hiện tại đã phản ánh hết vào giá, vì vậy cả TA & FA đều không thể dùng để kiếm abnormal return được. Thị trường hiệu quả dạng mạnh giả định mọi thông tin quá khứ hiện tại, đã công bố hay chưa công bố, tin mật của đội lái…đều được phản ánh hết vào giá. Vì vậy ngay cả có tin nội dán trong công ty cũng không thể kiếm được lợi nhuận phi thường, vì chỉ vài giây là là mọi thông tin public lên VFpress cả.

Ý tưởng về EMH được ra đời ở đầu thế kỷ 20. Năm 1990, cầu thủ người Pháp tên Frank Ribery-à không phải, nhà toán học người Pháp tên Louis Bachelier nộp luận án Tiến sĩ với tựa đề “đầu cơ chân kinh” (The Theory of Speculation) và miêu tả rằng bước đi của thị trường là ngẫu nhiên. Ngay đoạn mở đầu, Ông viết: “ thông tin quá khứ, hiện tại, thậm chí cả tương lai đều phản ánh cả vào giá cổ phiếu, nhưng thường không thể hiện 1 mối liên hệ rõ ràng với sự biến động giá hàng ngày”. Sau đó,có  nhiều nghiên cứu thực nghiệm, thống kê để bảo vệ EHM (phần lớn các nghiên cứu thống kê thị trường chứng khoán nhằm vào dạng weak EHM). Rất nhiều thống kê cho rằng không thể dùng biến động giá quá khứ để dự đoán giá cổ phiếu trong tương lai (kháng cự vững mấy mà có đội lái xịn là khoan thủng hết, gặp kháng cự, tin tưởng biểu đồ giá quá khư bán là mất hàng ráng chịu :D ). Năm 1965, Fama nghiên cứu và kết luận rằng biến động hằng ngày của giá cổ phiếu gần như chẳng liên quan gì đến nhau (zero positive correlation). Năm 1973, Malkiel dùng 1 thực nghiệm rất thuyết phục để chứng minh bước đi ngẫu nhiên của giá cổ phiếu & dìm hàng dân phân tích kĩ thuật (chartist). Ông giả định 1 cổ phiếu ABC giá 50$ & cho đám sinh viên gieo đồng xu. Nếu mặt xấp thì giá cổ phiếu ABC tăng 1$, mặt ngửa thì giảm 1$. Mỗi lần gieo, cơ hội giá cổ phiếu tăng giảm so với phiên trước là 50/50. Sau đó Ông thu thập data lại và vẽ chart theo đúng kết quả gieo đồng xu ngẫu nhiên cho 1 chuyên gia PTKT xem. Chartist này khuyên ông hãy mua cổ phiếu ABC ngay, cốc tay cầm rõ ràng, không mua nhanh tàu chạy mất. Sau khi Malkiel nói rằng Tao gieo xu vẽ chart chọc mày chơi thôi, chartist này rất tức giận.

Ngoài ra, nhiều nghiên cứu nhằm vào các Active manager để chứng minh rằng có cố mấy thì xác suất thắng thị trường cũng 50/50. Cowles (1933) phân tích hàng ngàn cổ phiếu được chọn bởi các chuyên gia từ năm 1928-1933 và cho thấy rằng khả năng chọn hàng chiến của các chuyên gia cũng hên xui. Năm 1967, Jensen cũng làm 1 phân tích định lượng hoành tráng, dùng danh mục của 115 mutual funds chạy hồi quy. Kết quả fund return sau khi trừ phí quản lí thì còn thấp hơn cả S&P 500. Thực nghiệm gần đay của VFpress gây được tiếng vang lớn đó là cuộc thi “ai kiếm tiền hơn học sinh lớp 2”, các cháu lớp 2 không biết cổ phiếu là gì vẫn đánh bại được thị trường (chẳng bù cho bố & các chú của cháu, học hành đánh đấm đủ thể loại vẫn lõm).
Tuy nhiên, cũng có rất nhiều nghiên cứu cho rằng thị trường không hiệu quả, ít nhất trong 1 số thời điểm nhất định nào đó. Tiêu biểu là nghiên cứu về “hiệu ứng tháng Giêng” của Kinney năm 1976: tháng Giêng thường lợi nhuận đầu tư cổ phiếu cao hơn các tháng khác. Hoặc “hiệu ứng ngày thứ Hai” của Gibbons năm 1981 cho thấy giá cổ phiếu thường giảm vào ngày thứ 2. (hôm qua thứ 2 VN-index cũng mất điểm).
(còn tiếp...)

Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Cách đọc báo cáo tài chính trong 1 phút

Trong bài phỏng vấn năm 1993, khi được Adam Smith hỏi làm thể nào 1 nhà đầu tư nhỏ lẻ có thể tìm được cổ phiếu tốt, Warren Buffett trả lời:” hãy làm theo cách tôi đã làm từ 40 năm trước đây, đọc báo cáo tài chính của tất cả các doanh nghiệp niêm yết ở Mỹ. với 1 kho kiến thức khủng tăng theo thời gian đó sẽ giúp bạn đầu tư tốt” . Smith hỏi lại:” nhưng có đến 27 ngàn công ty?”. “Thì bắt đầu từ vần A”-Buffett trả lời.
Dĩ nhiên ngày nay tên tuổi của Buffett đã lừng lẫy & có rất nhiều doanh nghiệp tự tìm đến Ông để chia sẻ ý tưởng kinh doanh. Nhưng cách đây 50 năm thì Buffett cũng chỉ là 1 nhà đầu tư nhỏ lẻ như chúng ta và cũng phải lọ mọ đọc báo cáo tài chính  để tìm kiếm cơ hội đầu tư. Ai cũng biết Buffett đọc rất nhiều.
Với công nghệ thông tin phát triển như hiện nay, chúng ta có lợi thế hơn Buffett rất nhiều khi chỉ click chuột 1 cái là có ngay báo cáo để nghiên cứu. Số lượng doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam cũng không nhiều, vì vậy đọc hết báo cáo tài chính của tất cả doanh nghiệp niêm yết ở Việt Nam là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, tôi & nhiều VFers khác còn phải lo cơm áo gạo tiền, chiếm trọn thời gian hàng ngay. Dù có đủ đam mê & chăm chỉ nhưng không phải ai cũng có điều kiện như Buffett để có thể ngồi đọc báo cáo tài chính 15h/ngày. Vì vậy tôi đọc lướt 1 báo cáo tài chính trong vài phút, cái nào tốt thì đánh dấu lại & tìm hiểu sâu. Báo nào nào nhìn vô đã thấy tệ thì không tốn thời gian nghiên cứu công ty đó nữa.
Xin phép bắt đầu từ báo cáo của L10 mà tôi lọ mọ đọc sáng nay. Bước tìm hiểu đầu tiên, tôi dựa hoàn toàn vào BCTC để phán. Rất có thể tôi phán sai, & bạn có nhiều thông tin hơn để tin tưởng vào tiềm năng dài hạn của L10, nhưng đây là cổ phiếu tôi loại ra khỏi danh sách theo dõi sau 1 phút đọc BCTC.  Có thể L10 có vài điểm tốt nào đó, nhưng nếu đặt túi tiền của mình vào đây thì khó kê gối ngủ ngon. Trong khi đó còn nhiều cổ phiếu khác có thể bỏ tiền vào & kê gối ngủ ngon dựa vào lợi thế cạnh tranh rõ ràng, biên lợi nhuận cao, không vay nợ (VNM, DHG…).




1 nguyên tắc cơ bản là Bad Balance Sheet= Bad business. 1 doanh nghiệp có Bad Balance Sheet thường lợi nhuận & các yếu tố khác biến động rất thất thường. Có thể bạn may mắn mua trúng đáy & năm sau doanh nghiệp có lợi nhuận khủng, nhưng liệu lợi nhuận có ổn định & duy trì trong thời gian dài được không? Tôi thì cẩn trọng & chú trọng vào sự ổn định hơn.
Nếu bạn không có nhiều thời gian, hãy  đọc báo cáo tài chính trong 5 phút mỗi ngày & loại những cổ phiếu không hấp dẫn ra khỏi danh mục. Sau 3 tháng, bạn sẽ có 1 danh mục vài chục cổ phiếu tốt để tự mình quyết định đầu tư.


Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2013

Đầu tư chứng khoán: phân tích bao nhiêu là đủ?

Nếu nghề nghiệp của bạn là bác sĩ, kĩ sư, hoặc kế toán, càng đọc nhiều sách chuyên ngành, hiểu biết sâu rộng về kiến thức chuyên môn, nhiều năm kinh nghiệm làm nghề sẽ giúp tay nghề bạn càng ngày càng cao và càng khó bị tầng lớp trẻ soái ngôi. Nhưng làm đầu tư thì khác! Có lẽ không có ngành nghề nào mà ranh giới giữa chuyên gia & newbie lại mỏng manh như nghề đầu tư. Đầu tư thành công đòi hỏi 1 số tố chất  riêng & sự nhạy bén, không phải cứ cần cù, sống lâu bù thông minh là có thể thay thế được (theo @Shadow). Đẹp trai tài giỏi & cáo già như Ackman 1 phút sơ sẩy vẫn phải cắt lỗ 50% như các nhà đầu tư non tay mới vào nghề.
Nhiều nhà đầu tư thường bị lỗi tâm lí illusion of control (ảo tưởng về khả năng kiểm soát). Khi họ nghiên cứu rất kĩ một cổ phiếu trước khi mua, phân tích cơ bản, kĩ thuật, tin nội gián, biết tường tận đội lái nào sẽ đánh lên ở đâu, rung lắc mốc nào…, họ tin rằng hiểu biết của họ dư sức giúp họ kiểm soát được đường đi của cổ phiếu họ nắm giữ.(Cuối cùng bị đội lái úp sọtàlỗ nặng).  Ngược lại, 1 số nhà đầu tư khác lại không hề nghiên cứu tí gì về cổ phiếu của mình mua mà dựa hoàn toàn vào tư vấn của Broker hoặc mua cổ phiếu nóng theo các cao thủ phím cho. Các nhà đầu tư mới vào thị trường thường chơi kiểu này & phần lớn là lỗ nặng. E thuộc thành phần thích tích phân, phân tích kĩ càng, lọ mọ đọc báo cáo tài chính, nghiên cứu ngành, model DCF hoành tránh. Đến lúc model hoàn chỉnh, báo cổ phiếu ngon bổ rẻ, tính toán mua thì cổ phiếu chạy được vài chục % mất rồi, không còn rẻ nữa.
Nghiên cứu quá nhiều cũng không ổn, không nghiên cứu gì thì lỗ chắc. Vậy phải hiểu biết sâu tới đâu trước khi nhấn nút mua? Rất may có cuốn Margin of Safety của Seth Klarman đã giúp e giải đáp thắc mắc này. Theo sách viết thì dù có nghiên cứu kĩ đến đâu thì cũng có 1 số thông tin quan trọng các nhà đầu tư thông thường sẽ không biết được, vì vậy nhà đầu tư cần phải học kĩ năng ra quyết định dựa trên những gì mình hiểu biết về công ty đó. Dù bạn có biết tất tần tật về công ty cũng không chắc mua vào đã có lãi. Tìm kiếm thông tin để đầu tư cũng tuân theo nguyên tắc 80/20: 80% thông tin cần thiết mà bạn có thể kiếm được thường đến từ 20% thời gian tìm kiếm. Hơn nữa, các thông tin về ngành, số liệu vĩ mô biến động liên tục, khiến bạn phải liên tục cập nhật tin tức. Nếu ai cũng biết những thông tin như nhau thì bạn sẽ không còn lợi thế về thông tin nữa. Vì vậy, các nhà đầu tư thành công thường không chờ đợi đến lúc hiểu biết hoàn hảo về doanh nghiệp mới ra quyết định đầu tư. Họ được đánh giá cao nhờ sự nhạy bén & quyết đoán của mình khi đi những nước cờ có nhiều rủi ro. Thời gian chờ đợi thu thập đầy đủ thông tin có thể khiến các nhà đầu  mất cơ hội mua cổ phiếu giá thấy và biên an toàn không còn nữa.
Thực tế, nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng thu thập càng nhiều thông tin càng khiến bạn tự tin quá mức, chứ không tăng độ chính xác lên được. Sự tự tin quá mức rất nguy hiểm trong đầu tư. Vì vậy, chỉ cần bạn trả lời được 8 câu hỏi sau trước khi đầu tư là coi như đã hoàn thành được 80% quá trình phân tích trước khi quyết định đầu tư:
1/ Mô hình kinh doanh của công ty có dễ hiểu và dễ điều hành không?
2/ Công ty có tăng trưởng ổn định về doanh thu và EPS trong 5-10 năm qua không? (sự ổn định quan trọng hơn tốc độ tăng trưởng)
3/ Công ty sẽ làm ăn ổn và có lợi nhuận tốt hơn trong 5-10 năm tới không? (dự đoán nhu cầu sản phẩm & dịch vụ của doanh nghiệp trong tương lai)
4/ Công ty sử dụng lợi nhuận giữ lại như thế nào?
5/ Công ty có lợi thế cạnh tranh bền vững không? (sức mạnh giá, lợi nhuận biên, dẫn đầu ngành, rào cản gia nhập…)
6/ Ban lãnh đạo điều hành doanh nghiệp tốt như thế nào? (phân bổ vốn, ROE, corporate governance, so sánh với đối thủ cạnh tranh)
7/ Công ty có đòi hỏi phải đầu tư capex nhiều đều đặn mỗi năm để tăng trưởng không?
8/ Công ty có tạo ra nhiều tiền & tốn ít chi phí không?

Phần lớn checklist này cũng giống với cách chọn công ty tuyệt vời và tránh công ty ăn hại của Buffett.

Chủ Nhật, 6 tháng 10, 2013

Warren Buffett trúng đậm với deal Mars Candy

Warren Buffett và Berkshire Hathaway đã kiếm được rất nhiều tiền từ cuộc khủng hoảng tài chính 2008. Trong cuộc khủng hoảng, Berkshire  đóng vai trò hiệp sĩ áo trắng (white knight investor), cung cấp những khoảng tiền khổng lồ và khẩn cấp cho các công ty lớn. Với túi tiền khủng của mình, Buffett có khả năng cho các định chế tài chính lớn như Bank of America hay Goldman Sachs vay với lãi suất cao, hoặc đầu tư vào cổ phiếu ưu đãi của các tổ chức này với cổ tức hấp dẫn.

Một trong những công ty mà Berkshire cho vay tiền là Mars Inc. Năm 2008, Mars cần 23 tỉ USD mua lại Wm. Wrigley Jr. Buffett đã cho Mars vay 4.4 tỉ USD and dùng 2.1 tỉ USD mua cổ phần của Wrigley dưới dạng cổ đông thiểu số. Tại thời điểm đó, Buffett nói:” Các bạn đều biết rõ tôi rất thích mô hình kinh doanh của Wrigley từ nhiều năm nay, và tôi cũng thích sản phẩm của họ. Khi bạn muốn tìm một mô hình kinh doanh dễ hiểu, có tiềm năng tăng trưởng dài hạn, và có ban quản trị đáng tin tưởng, bạn sẽ nghĩ ngay đến Wrigley. Kết hợp những gì Wrigley đã có với một công ty có nguồn lực hùng hậu và xây dựng được thương hiệu tốt như Mars sẽ tạo nên một công ty “bá đạo” về sự sáng tạo & tăng trưởng trên thị trường bánh kẹo thế giới.
The Wall Street Journal cho biết Berkshire đã lãi ít nhất 680 triệu đô ở deal này. Mars đã mua lại trái phiếu trị giá 4.4 tỉ USD năm 2008 của Berkshire với giá cao hơn 115% so với par value cộng với tiền lãi. Deal này diễn ra ngay khi có tin rằng Berkshine đã exercise chứng quyền (warrant) trị giá 2 tỉ USD cho 13.2 triệu cổ phiếu của Goldman Sachs. Các chứng quyền này đã được thỏa thuận từ cuộc khủng hoảng 2008, Goldman Sachs đã phải cầu viện đến Berkshire để tăng vốn và vực lại niềm tin của thị trường, khi cổ phiếu của họ lao dốc sau sự kiện Lehman Brothers sụp đổ.

Buffett cũng làm 1 deal tương tự với Bank of America. Berkshire cho các ngân hàng lớn nhất vay, đổi lại lấy cổ phiếu ưu đãi của những ngân hàng này với cổ tức hấp dẫn, và điều khoản mua thêm cổ phiếu ở 1 mức giá xác định trong tương lai. Goldman đã mua lại số cổ phiếu ưu đãi từ Buffett với giá cao hơn 10% hồi tháng 3/2011. Những cổ phiếu này trả cổ tức lên tới 500 triệu USD mỗi năm, tương đương 15 USD một giây, theo Reuters.

Buffett đánh cược vào sự phục hồi của ngành tài chính, và Ông đã bỏ túi hàng tỉ đô từ những vụ đầu tư lớn vào các ngân hàng trong thời kì khủng hoảng. chỉ 2 năm sau khi Buffett bỏ tiền vào Bank of America, ông đã đem lại cho các cổ đông Berkshire lợi nhuận dự kiến 5.27 tỉ USD.

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2013

Cách phân loại doanh nghiệp của Buffett

Hiểu biết về mô hình kinh doanh của 1 doanh nghiệp có thể làm tăng biên an toàn rất lớn cho việc đầu tư, và là 1 công cụ tuyệt vời để chúng ta bảo vệ bản thân khỏi rủi ro thua lỗ. Trong thư gửi cổ đông năm 1997, Buffett viết:
“Nếu bạn hiểu một doanh nghiệp một cách hoàn hảo, và tương lai của nó, bạn hầu như không cần nhiều biên an toàn. Nếu doanh nghiệp rất dễ tổn thương, và bạn vẫn muốn đầu tư vào nó, bạn càng cần yêu cầu một biên an toàn cao. Nếu bạn đang lái một chiếc xe tải qua một cây cầu, chiếc xe đang chở 9800 pound, trong khi tỷ trọng cho phép là 10000 pound, và cây cầu có một vết nứt rộng khoảng 6 inch, bạn có thể cảm thấy vẫn an toàn. Nhưng nếu bạn lái chiếc xe này qua Grand Canyon,bạn sẽ thấy sợ và cần biên an toàn cao hơn.”
Buffett phân loại business thành 3 nhóm: tuyệt vời, tốt, và ăn hại. Theo ông, 1 business tuyệt vời :
·         Tạo ra rất nhiều tiền và chỉ chi tiêu ít
·         Phải có moat: lợi thế cạnh tranh bền vững để ko bị đe dọa từ đối thủ cạnh tranh và giúp doanh nghiệp kiếm được lợi nhuận cao.
·         Hoạt động ở 1 ngành ổn định.
·         Cần ít vốn đầu tư mà vẫn tăng trưởng tốt.
·         Có thể dễ dàng tăng giá bán sản phẩm mà không sợ mất thị phần hoặc giảm số lượng sản phẩm.
Hoặc ngược lại, Buffett từng viết: phải tránh đầu tư vào 1 doanh nghiệp:
·         Chi tiêu nhiều hơn số tiền kiếm được.
·         Có đội ngũ lãnh đạo tồi.
·         ROE thấp
·         Hoạt động trong ngành mà một công ty mới cũng dễ dàng gia nhập và thành công
·         Hoạt động trong ngành có nhiều biến động (bởi công nghệ, luật pháp…)
·         Cần nhiều vốn tái đầu tư hàng năm để tăng trưởng
·         Không có khả năng tăng giá bán
·         Không có khả năng gia tăng doanh thu nhanh chóng chỉ với một ít vốn đầu tư thêm
Trong khi đó, 1 business tốt được định nghĩa như sau:
·         Có lợi thế cạnh tranh vừa phải nhưng vững chắc. Lợi thế cạnh tranh sẽ tăng dần theo độ lớn và hiệu quả kinh tế về quy mô.
·         Cần phải có 1 thuyền trưởng chèo lái doanh nghiệp tốt để tạo ra xuất sinh lời cao trên vốn đầu tư.
·         Tỉ lệ tăng trưởng  từ vừa phải đến cao, và vì vậy đòi hỏi phải bơm thêm tiền hàng năm.
 Buffett từng đề cập rằng 1 ban lãnh đạo tốt cũng khó có thể khôi phục 1 doanh nghiệp làm ăn tệ hoạt động trong 1 ngành không hấp dẫn, như ngành dệt, hàng hóa hoặc hàng không. Mặc dù có 1 ban lãnh đạo tốt khi mua công ty dệt, nhưng công ty dệt của WB vẫn làm ăn không hiệu quả và phải bán đi vào năm 1985. Theo Ông ước tính, nếu bỏ tiền vào 1 business tốt hơn từ sớm thay vì chôn vốn ở ngành dệt, lợi nhuận của ông có thể đã tăng gấp đôi hiện tại. 1 doanh nghiệp ăn hại không là một vụ đầu tư tồi tệ mà còn khiến chúng ta mất chi phí cơ hội rất lớn.
Để tóm lược 3 loại doanh nghiệp tuyệt vời, tốt & ăn hại, WB viết:

“ hãy nghĩ về 3 tài khoản tiết kiệm. 1 tài khoản tuyệt vời cho bạn lãi suất rất cao & sẽ tăng năm nay qua năm khác. Tài khoản tốt cho lãi suất hấp dẫn, nhưng yêu cầu bạn phải nạp thêm tiền vào tài khoản hàng năm. Trong khi đó, 1 khoản tiết kiệm tồi vừa trả lãi suất thấp vừa bắt bạn phải nạp rất nhiều tiền vào mà không được hưởng lãi. “

Thứ Tư, 28 tháng 8, 2013

Hai kĩ năng sẽ luôn giúp bạn được trả lương cao ở Wallstreet

Wallstreet đã có nhiều thay đổi trong những năm gần đây, nhưng theo Alan Breed, CEO của Edgewood Management- có 2 cách giúp bạn luôn được trả lương cao khi làm việc ở Wallstreet.
Trong 1 lần trả lời phỏng vấn về nghề nghiệp tài chính cho chương trình Open door mới đây, Breed đề cập đến 2 kĩ năng thiết yếu: đó là huy động quỹ (raising money) và marketing.
Đầu tiên, Breed nói:” bạn phải có khả năng huy động quỹ. Những người có khả năng huy động quỹ trong môi trường đầu tư hiện nay luôn được đánh giá cao. Nếu bạn có khả năng tạo ra alpha, bạn sẽ có nhiều tiền”.
Cách thứ hai, vị CEO này nhấn mạnh: đó là marketing. Breed giải thích:” marketing là 1 phần rất quan trọng để phát triển mô hình kinh doanh của bạn.Bạn đã biết rằng Portfolio Managers là những người có nhiều ý tưởng lớn & là người điều hành quỹ.  Và ngày nay, bạn cần biết rằng những người làm marketing có thể phát triển kênh phân phối là những người quan trọng thứ 2 của Quỹ & sẽ được trả lương rất cao”.
Breed cũng cảnh báo rằng những người làm công nhân tài chính như broker, analyst…hay làm ở Private equity thu nhập sẽ thấp dần đi trong tương lai, nếu bạn chỉ biết làm những công việc bình thường của công nhân tài chính.

Nhìn lại thị trường Việt Nam thì 2 điều Breed nói cũng là 2 kĩ năng sống còn ở TTCK Việt Nam. Khi thị trường tài chính bất ổn, làn sóng rút vốn của nhà đầu tư nước ngoài ít nhiều tác động đến các quỹ đầu tư. Nếu bạn có thể đi raising fund được trong thời buổi khó khăn này chắc chắn sẽ được trải thảm đỏ chào đón. Kĩ năng marketing thì rất quan trọng khi cần phát triển hoặc exit  deal (mông má trình bày thật đẹp đẽ để bán được giá cao). Đó là 2 cách add value rõ ràng nhất cho công ty sẽ được trả lương cao. 

Thứ Bảy, 24 tháng 8, 2013

Làm việc ở Ngân hàng đầu tư vất vả như thế nào?

Gần đây, 1 nhân viên thực tập 21 tuổi tại Bank of America, Moritz Erhardt qua đời vì làm việc quá sức.  Erhardt chỉ là 1 thực tập sinh nhưng phải làm việc đến 100-120h 1 tuần, ở lại công ty làm đến 5-6h sáng. Bài báo về cường độ làm việc của Moritz được dân Investment banking quan tâm và có nhiều tranh luận về điều này. Đúng là làm việc ở Ngân hàng đầu tư rất vất vả, nhiều lúc phải làm việc 100h 1 tuần là có thật. Nhưng không phải kéo dài nhiều tháng với cường độ 100-120h/ngày, và phải làm việc đến 6h sáng trong 3 ngày liên tiếp như trường hợp của Moritz. Đặc biệt với 1 thực tập sinh trong 2 tháng thì cường độ làm việc được cafebiz giật tít “ đời nô lệ của nhân viên thực tập ngân hàng” có phần hơi quá. Theo đánh giá của trang web wallstreetoasis, thời gian làm việc trung bình của các investment banker trung bình tầm 80h/ tuần. Đôi khi cũng lên đến 100h/ tuần nhưng không thường xuyên. Nếu bạn phải làm nhiều hơn 80h/tuần phần lớn là do bạn làm việc kém hiệu quả so với các đồng nghiệp khác. Để thành công trong ngành ngân hàng đầu tư này, làm việc hiệu quả là vô cùng quan trọng. Các thực tập sinh thường làm việc không lương hoặc lương rất thấp  & cũng không có ràng buộc gì với công ty. Tuy nhiên, nếu bạn muốn được đánh giá cao & có 1 cơ hội nghề nghiệp tại 1 ngân hàng đầu tư lớn, bạn phải cày tối đa để chứng minh khả năng & sự cống hiến của mình cho công ty. Đây là lí do chính khiến cho các nhân viên mới ở các ngân hàng đầu tư phải làm việc quá sức trong thời gian dài & ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe. Ngoài Investment banker ra thì kiểm toán viên ở Big4 cũng thường xuyên sống dở chết dở trong mùa kiểm toán. Đã từng có 1 kiểm toán viên của PwC ở Trung Quốc qua đời vì làm việc quá sức. Ở Việt Nam rất may chưa có trường hợp nào qua đời vì làm việc quá sức, nhưng tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe, đặt biệt về não & mắt không phải là hiếm. Được là việc ở các công ty, quỹ đầu tư lớn nhất, thu nhập ổn, làm công việc yêu thích là mơ ước của nhiều người. Nhưng đằng sau vinh quang đó là 1 sự đánh đổi không nhỏ. Kiếm 1 công việc tốt rất khó, nhưng giữ được nó còn khó hơn rất nhiều. Khi làm việc với những người giỏi hơn mình, để không bị đào thải, bạn buộc phải hy sinh thời gian riêng sau giờ lại để tiếp tục ở lại làm việc đến khuya, mất ngủ, stress là điều không tránh khỏi. Nhiều lúc bạn sẽ tự hỏi mình đánh đổi như thế này liệu có đáng hay không? Tất nhiên không cày khỏe bằng Erhardt nhưng 70-80h/ tuần là chuyện thường ở huyện. Và dĩ nhiên không có những buổi picnic cuối tuần, trà chanh chém gió như những người bạn làm những công việc nhẹ nhàng hơn, 8h 1 ngày, không làm cuối tuần. Nhưng ngẫm lại, được làm công việc mình yêu thích là hạnh phúc rồi, có vất vả chút cũng phải ráng vượt qua. Ngủ 1 giấc thật ngon & mơ mộng rằng vài năm nữa leo lên những nấc thang cao hơn có lẽ ít phải cày cuốc hơn. Thì các sếp vẫn thường đánh golf, tennis bàn chuyện làm ăn không mà, mấy ai ở lại công ty sau 8h tối đâu.  

Thứ Sáu, 16 tháng 8, 2013

30 câu hỏi giúp thay đổi cuộc đời bạn

Trước khi lên kế hoạch thực hiện mục tiêu, hãy chắc rằng bạn thực sự hiểu bản thân mình mong muốn gì, mơ ước của bạn, điểm mạnh điểm yếu của bạn… để vẽ bản đồ đến đích hiệu quả hơn. Hãy trả lời những câu hỏi này, sẽ giúp bạn hiểu chính mình hơn & rút ngắn quãng đường đến ước mơ hơn.
1/ Bạn có đang làm công việc mình thực sự yêu thích không?
2/ Bạn đang theo đuổi  mơ ước gì?
3/ Bạn có hài lòng & tự hào với những việc mình đã & đang làm?
4/ Bạn thực hiện được bao nhiêu % những lời hứa của mình?
5/ Kể tên 1 điều bạn thực sự muốn làm nhưng chưa bắt tay vào làm? Tại sao?
6/ Bạn đã từng mất đi người mình yêu?
7/ Bạn có hành động không nếu tỉ lệ thắng thua là 50/50?
8/ Nếu bạn có cổ máy thời gian của Đoremon & quay lại quá khứ gặp chính bạn khi 18 tuổi, bạn sẽ khuyên bản thân mình những gì?
9/ Bạn có phá bỏ mọi luật lệ vì người mình quan tâm?
10/ Bạn có dám theo đuổi 1 ý nghĩ sáng tạo mà mọi người cho nó là điên rồ?
11/ Bạn thích việc nào hơn: 1 công việc nhẹ nhàng nhưng chán, so với 1 công việc thú vị, nhưng rất stress và phải tốn nhiều thời gian?
12/ Bạn có sợ mắc phải sai lầm?
13/ 1 tính cách của bạn mà bạn không thích & muốn cải thiện nó?
14/ Điểm khác biệt nhất giữa bạn & những người khác là gì?
15/ Lần gần đây nhất bạn khóc là vì lí do gì?
16/ Điều gì bạn cần phải làm nhưng không đủ khả năng thực hiện lúc này?
17/ Bạn có nhớ những người mình ghét nhất cách đây 10 năm là ai không?
18/ Bạn thường tha thứ cho 1 người khác hay giận hờn họ cả đời?
19/ Điều gì làm bạn lo lắng lúc này?
20/ Nếu hôm nay bạn qua đời, bạn hối tiếc điều gì nhất
21/ Bạn thích điều gì hơn, đi du lịch 1 mình trên chiếc du thuyền 5 sao, hay đi picnic ở bãi biển với bạn bè?
22/ Bạn khâm phục ai nhất, tại sao?
23/ Ai là người tác động lớn đến tính cách, con người bạn?
24/ Bạn hài lòng với điều gì nhất?
25/ Lần cuối cùng bạn cười lớn là khi nào & vì sao?
26/ Bạn có thường làm những điều khiến mình & mọi người xung quanh vui vẻ?
27/ Bạn có đang yêu không, hoặc đã từng yêu chưa?
28/ Lần cuối cùng bạn nói chuyện với bố mẹ là khi nào?
29/ Nếu hạnh phúc là tiền, bạn đang giàu sụ, khá giả, đủ ăn hay túng thiếu?

30/ Nếu hôm nay trái đất nổ tung, bạn sẽ làm gì? (no sex nhé J )

Đọc báo cáo tài chính của công ty bảo hiểm

BCTC của công ty Bảo hiểm & các tổ chức tài chính nói chung khá đặc thù, doanh thu của loại hình này không phải đến từ việc bán 1 tài sản vật chất, mà là buôn bán tiền, hoặc là bán 1 cam kết chi trả khi gặp tai nạn, sự cố…Nhiều  chỉ số tài chính quen thuộc đối với doanh nghiệp sản xuất như EBITDA, EV…không áp dụng được cho doanh nghiệp bảo hiểm. Trước tiên, hãy làm quen với báo cáo tài chính của 1 công ty bảo hiểm:
1/ Income statement

Doanh thu: Thay vì có các khoản mục như doanh thu, giá vốn hàng bán, IS 1 doanh nghiệp bảo hiểm bắt đầu bằng khoản mục “thu phí bảo hiểm gốc”. Written premium là hoạt động chính của 1 công ty bảo hiểm, cộng với doanh thu từ tái bảo hiểm & hoa hồng tái bảo hiểm.
Chi phí: giá vốn của công ty bảo hiểm chính là chi phí bồi thường bảo hiểm gốc, bồi thường nhận tái bảo hiểm. Ngoài ra còn có các chi phí quản lí & bán hàng không liên quan trực tiếp đến hoạt động bảo hiểm (SG&A) và chi phí lãi vay.
Điểm khó khăn khi đọc báo cáo bảo hiểm đó là nguyên tắc ghi nhận doanh thu, chi phí & các khoản dự phòng. Giả sử khách hàng kí 1 hợp đồng bảo hiểm phí 100tr từ tháng 6 năm nay đến tháng 6 năm sau. 100 tr sẽ được ghi nhận là “thu phí bảo hiểm gốc”, nhưng không được ghi nhận toàn bộ là doanh thu trong kì. Chỉ được ghi nhận 50tr doanh thu, 50tr còn lại là unearned revenue.
Ở phần chi phí, bạn giả định rằng 1 đồng thu được từ phí bảo hiểm gốc, bạn phải chi trả 1 tỉ lệ phần trăm nào đó để đền bù cho chủ hợp đồng. Nếu tỉ lệ này là 75%, chi phí được ghi nhận là 375tr. Chi phí ước tính này so với khoản tiền thực chi để bồi thường là 2 con số hoàn toàn khác biệt. Nếu giả định cho 1 năm thì dễ, nhưng giả định cho 2,3 hoặc 20 năm thì vô cùng phứt tạp. Bạn nào muốn làm lương triệu đô hàng năm hãy học thật giỏi Actuary để trở thành 1 chuyên gia tính toán bảo hiểm. Bảo hiểm là 1 lĩnh vực được dự báo sẽ tăng trưởng mạnh ở Việt Nam trong 10 năm tới, nhưng nhân sự cao cấp cho ngành này còn rất thiếu.
Tái bảo hiểm cũng là 1 nét đặc thù của kinh doanh bảo hiểm. Các doanh nghiệp đều phải tái bảo hiểm, không nhiều thì ít, tùy theo năng lực tài chính, vốn chủ sở hữu … 
2/ Balance Shit

Điểm khác biệt giữa công ty bảo hiểm so với các công ty thông thường đó là tài sản cố định & Working capital thường không lớn, thay vào đó là các khoản đầu tư ngắn hạn, tiền gửi có kì hạn, trái phiếu, cổ phiếu…Các công ty chỉ kinh doanh nonlife insurance còn có lợi nhuận biên khá ổn từ bán bảo hiểm gốc, nhưng đối với life insurance như Bảo Việt (Bảo Việt là big player ở VN cả về life & non life), lợi nhuận biên của hoạt động bảo hiểm rất thấp, thậm chí còn âm. Chính lợi nhuận từ đầu tư mới đem đến tiền cho công ty bảo hiểm.

Phần liabilities, bạn phải làm quen với các thuật ngữ mới như dự phòng phí, dự phòng toán học, dự phòng giao động lớn…Phần vốn chủ sở hữu & Cash flow về cơ bản giống với BCTC các công ty thông thường

Thứ Ba, 13 tháng 8, 2013

Đa dạng hóa danh mục cuộc sống

Để có 1 sự nghiệp thành công, hầu hết chúng ta đều phải đầu tư rất nhiều công sức, trí tuệ, tiền bạc. Từ những bước ban đầu chuẩn bị cho buổi phỏng vấn xin việc, nhậu nhẹt networking, học thêm bằng này nọ… tất cả đều là những nổi ác mộng không tên. Đến khi đi làm thì gặp phải sếp khó tính, công việc ngập đầu đến mức không có thời gian thể dục thể thao. Làm việc được vài tháng bạn lại tự hỏi đây có phải công việc mình mơ ước không? Vất vả quá, mình phải làm gì để chuyển sang làm việc trong ngành chứng khoán đam mê của mình…Nếu bạn đang ở trong hoàn cảnh như vậy thì danh mục cuộc sống của bạn quá tập trung vào 1 quả trứng, đó là công việc. Nếu cách đầu tư này chưa làm bạn cảm thấy hạnh phúc & hài lòng với return của nó, hãy áp dụng phương pháp diversify danh mục này để có nhiều cảm xúc tích cực hơn, giảm thiểu stress trong công việc
  1. Duy trì các mối quan hệ bạn bè thân & mở rộng quan hệ hơn
Không khó để rủ vài người đồng nghiệp lai rai sau giờ làm, nhưng khá khó để gặp gỡ chuyện trò với nhóm bạn bè thân từ thời đại học. Thay vì đều đặn lai rai cuối tuần với đồng nghiệp để chửi sếp, than vãn về công việc áp lực, lương ba cọc ba đồng, hãy dành thời gian liên lạc với những người bạn thân, các thành viên trong đội bóng cũ, hoặc những nhóm bạn có cùng mục tiêu với bạn. Đầu tư vào các mối quan hệ này có thể sẽ tốn thời gian và công sức hơn, nhưng chắc chắn sẽ đem lại dividend cao hơn rất nhiều. Không sớm thì muộn, bạn sẽ nhận được nhiều sự trợ giúp đáng giá từ những người bạn này.
    
     2.   Phát triển 1 kĩ năng cần thiết sau giờ làm

Làm nghề tài chính đầu tư cần rất nhiều các kĩ năng cứng & kĩ năng mềm để tiết kiệm thời gian và làm việc hiệu quả hơn, ví dụ kĩ năng tiếng Anh, kĩ năng Excel, kĩ năng viết, kiến thức kế toán…Nhưng nhiều người thường mượn cớ công việc bận để trì hoãn không trau dồi các kĩ năng này. Hãy cố sắp xếp thời gian sau giờ làm để cải thiện 1 kĩ năng nào đó bạn cho là cần thiết trong công việc. Kĩ năng viết lách không chỉ vô cùng quan trọng với dân tài chính đầu tư mà cho rất nhiều công việc, ngành nghề khác. Hãy bắt đầu cải thiện kĩ năng này bằng cách viết bài đăng lên VFpress, blog cá nhân... vừa để trau dồi kiến thức, kĩ năng viết & làm quen những thành viên khác. Những comments & likes từ các bài viết là 1 niềm vui nho nhỏ sau giờ làm căng thẳng & giúp bạn cải thiện kĩ năng rất nhanh.
     3.   Hãy đọc, đọc nhiều thể loại sách & lĩnh vực

Làm sao để kể 1 câu chuyện, tóm tắt 1 quyển sách cho hấp dẫn, hiểu biết về quặng đa nguyên, bài Xì Tố…chắc chắn hotboy Giadinhbeo đã đọc rất rất nhiều sách về tài chính, tâm lý, wallstreet, Poker…mới có kiến thức sâu rộng như vậy. Đọc thật nhiều là cách mà Buffett chiến thắng trên chứng trường. Mỗi ngày ông đọc rất nhiều báo cáo thường niên công ty, report ngành, tạp chí về thị trường tài chính…mới có thể xâu chuỗi sự kiện tốt & đầu tư thành công được.
     4.   Hãy hỏi bản thân bạn sẽ làm gì nếu mất việc ngay lúc này?

Nếu quá chán công việc hãy nghỉ & tìm việc mới đúng với đam mê của mình. Lúc đầu sẽ rất vất vả nhưng bạn sẽ trở lại đường đua nhanh hơn bạn nghĩ rất nhiều. Chán nản & thất bại là 1 phần không thể thiếu của cuộc sống. Hãy đón nhận nó, học từ nó & bắt đầu lại một cách mạnh mẽ hơn! 

Thứ Hai, 29 tháng 7, 2013

Giá trị doanh nghiệp – Enterprise value & Equity value

Enterprise value & các chỉ số liên quan, ví dụ như EV/EBITDA là 1 chỉ số rất quen thuộc với dân Investment Bankers, Analysts & investors theo trường phái phân tích cơ bản. EV là số tiền phải bỏ ra để mua toàn bộ vốn cổ phần + nợ vay của doanh nghiệp. Thay vì dùng các chỉ số phổ thông như PE, phát biểu: “Công ty A có EV/EBITDA = 5, trong khi trung bình ngành là 7, quá rẻ” nghe có vẻ hoành tráng & trí tuệ hơn hẳn J (nhưng tiếc là phát biểu không đúng cho mọi trường hợp).

Về công thức tính, Enterprise Value = giá thị trường của Equity + Vay ngắn hạn + Vay dài hạn + Lợi ích cổ đông thiểu số + Giá trị thị trường cổ phiếu ưu đãi - Tiền và tương đương tiền. Nếu theo toán học thì càng tăng debt & giảm cash sẽ làm tăng giá trị doanh nghiệp lên. Nhưng như vậy có hợp logic không?

Hãy bỏ qua những thuật ngữ phứt tạp về minority interest, preferred stock, dùng công thức đơn giản EV= Equity value (QV) + Net Debt (ND).  Giả sử bạn định mua 1 căn nhà giá 5 tỉ, trong đó bỏ ra 1 tỉ vốn & vay thêm 4 tỉ. Như vậy EV của căn nhà là 5 tỉ, còn QV là 1 tỉ. Equity value chỉ thể hiện giá trị của số vốn bạn bỏ vào kinh doanh.  Lãi vay đang rẻ, bạn tranh thủ vay thêm 1 tỉ mông má lại căn nhà để bán được giá hơn. Ngay sau khi vay, debt tăng lên 1 tỉ & cash cũng tăng lên 1 tỉ, còn giá trị căn nhà có tăng lên không? Hiển nhiên là không, vì tiền vay vẫn nằm trong tài khoản ngân hàng, chưa ảnh hưởng gì đến giá trị căn nhà. Bây giờ bắt đầu rút tiền ra sơn sửa lại nhà, debt vẫn là 5 tỉ, trong khi đó cash đã ít đi, vì vậy net debt đã tăng lên và giá trị căn nhà bạn đã thay đổi. Câu hỏi ở đây là EV của căn nhà thay đổi như thế nào?

Trường hợp thứ nhất, bạn sửa nhà hết 1 tỉ và bán căn nhà được đúng 6 tỉ. Như vây EV căn nhà đã tăng 1 tỉ so với ban đầu, nhưng QV của bạn chẳng tăng đồng nào. Bán nhà  6 tỉ, trả nợ 5 tỉ, bỏ túi đúng bằng 1 tỉ vốn ban đầu. Tương tự, nếu bạn sửa 1 tỉ & bán được 6.5 tỉ, nghĩa là khoản vay 1 tỉ để sửa nhà đã giúp EV tăng 1.5 tỉ & QV tăng được 500 tr. Tệ nhất là sửa nhà hết 1 tỉ mà chỉ bán được 5.5 tỉ, vậy là lỗ mất 500tr.


Enterprise value & equity value được sử dụng rất thường xuyên khi định giá doanh nghiệp. Khi bạn muốn chiết khấu dòng tiền để định giá doanh nghiệp, có thể định giá enterprise value bằng cách tính Free CF to Firm & chiết khấu bằng WACC, hoặc định giá trực tiếp equity bằng cách tính Free CF to Equity & chiết khấu bằng cost of equity. Hiểu rõ bản chất của EV & equity sẽ giúp bạn dùng đúng free cash flow & discount rate trong model của mình. Ngoài ra, khi so sánh các doanh nghiệp bằng các chỉ số EV/EBITA, PE… hiểu đúng bản chất của enterprise value & equity value sẽ giúp bài valuation logic & chặt chẽ hơn. 

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2013

5 câu hỏi phổ biến về kết quả CFA sẽ có ngày mai

Kết quả kì thi CFA level 1 & 2 sẽ có vào ngày mai, 22/7. Vậy là sau nhiều tháng học hành vất vả, cày sâu cuốc bẩm & gần 2 tháng hồi hộp chờ đợi, bạn sẽ biết nổ lực của mình có được đền đáp như mong muốn không. Cadidate level 2 đã trải qua cảm giác hồi hộp & xúc động khi nhận kết quả, nhưng có lẽ rất nhiều level 1 candidate đang rất nóng lòng & muốn hỏi nhiều điều về kết quả ngày mai. Dưới đây là 5 câu hỏi phổ biến về kết quả thi CFA:
1/ Kết quả thi được thông báo như thế nào?

Trước đây, kết quả CFA được post trên trang web của CFA Institute, & bạn sẽ truy cập vào trang web để dò kết quả. Nhưng quá nhiều người cùng vào trang web 1 lúc khiến trang web thường không truy cập được vào ngày nhận kết quả. Vì vậy CFA Institute đã chuyển sang cách gửi mail cho từng candidate thông qua email bạn nhập lúc đăng kí thi.
Formats kết quả thường khác nhau đôi chút qua mỗi năm. Format năm 2012 như sau: nếu may mắn bạn sẽ nhận được thông báo  “Congratulations! We are very pleased to inform you that you passed the June 2012 Level 1/II CFA exam. 42% of candidates passed the June 2012 Level 1/II CFA exam. You are one step closer to achieving your goal of earning the globally respected CFA charter”. Nếu không may, I'm sorry to inform you…
2/ Khi nào email đến?

9h sáng mai (9AM ET) là kết quả sẽ được gửi mail đi. Nhưng do chênh lệch múi giờ nên nếu bạn ở Anh thì sẽ nhận vào 2h chiều, Ấn Độ là 6h30PM, Trung Quốc, Sing, Việt Nam khoảng 9h PM. Cảm giác đợi mail rất thú vị, refresh mail liên tục. 1 số bạn bè có điểm trước và pass sẽ gọi hỏi thăm bạn có kết quả chưa? Lúc này bạn sẽ rất nóng lòng và nghĩ: “WTF, sao mình chưa có kết quả, mấy đứa đậu có trước hết rồi, vậy mình teo rồi L “. Thực có ra nhanh hay chậm hơn 1,2h là bình thường, không phải do điểm thấp thì có mail sau nhé bạn.

3/ Bảng kết quả thi tròn méo thế nào?

Trong email sẽ có 1 bảng thống kê điểm số của 10 môn học  với 3 mức: 0-50%, 50-70%, >70%. Nếu bạn được 1 hàng dọc (10 môn trên 70%) thì quá tuyệt vời, thực ra chỉ cần 4 môn lớn trên 70% và ko quá 2 môn dưới 50% là đủ đậu rồi.

4/ Nếu tôi đậu/rớt, tôi sẽ làm gì tiếp theo?

Nếu bạn đậu, xin chúc mừng! bạn hãy đi liên hoan với bạn bè, tận hưởng niềm vui chiến thắng. Sau đó chuẩn bị tiền để đăng kí level tiếp theo available ngay sau ngày báo kết quả.
Nếu bạn không pass, đừng từ bỏ! Hơn 70% candidates đã từng thi lại kì thi này. Thất bại là bài học để bạn thay đổi phương pháp học tập, nổ lực hơn nữa để đạt được ước mơ.

5/ Tôi làm rất tốt mà vẫn rớt, tôi phải phúc khảo!

Nếu bạn rớt & muốn phúc khảo, bạn có quyền phúc khảo. Nhưng nó sẽ tốn của bạn 100$ & theo tôi được biết thì chưa có ai phúc khảo thành công! L. Vì vậy lời khuyên là trừ khi bạn tự tin là làm rất rất tốt, nhưng kết quả lại rất rất tệ hãy phúc khảo.  (đôi khi bạn suy nghĩ đúng hết nhưng quá cao hứng nên tô nhầm vào ô trả lời nên thành sai hết)

Nếu bạn có thêm câu hỏi khác, hãy comment & sẽ được reply ngay lập tức J

Thứ Tư, 17 tháng 7, 2013

Làm sao để tự tin hơn?

1 trong những điểm lớn làm nên sự khác biệt giữa người thành công & thất bại đó là sự tự tin vào bản thân mình. Người tự tin luôn sống hạnh phúc & thành công hơn, bất kể họ có gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống. Số người xuất chúng & tự tin bẩm sinh từ trong bụng mẹ không nhiều, nhưng may mắn là sự tự tin có thể luyện tập được. Dưới đây là 14 cách để luyện sự tự tin, không quá khó, nhưng đòi hỏi phải kiên trì để tạo thành 1 tính cách.
1/ Thất bại thường xuyên hơn: càng gặp nhiều thách thức, thất bại càng nhiều lần sẽ cho bạn nhiều bài học giá trị & giúp bạn tự tin hơn ở những lần sau (miễn là bạn đừng bị thất bại đánh gục)
2/ Ghi lại thành quả mình đạt được: hãy viết 1 danh sách những thành công bạn đã đạt được, cả lớn & nhỏ. Nó giúp bạn nhớ lại những khoảnh khắc thành công & cảm thấy tự tin hơn.
3/ Đừng so sánh: đừng so sánh bản thân với bất kì ai. Chặng đường của mỗi người có những chướng ngại & điểm đến khác nhau. Mãi so sánh với các con ngựa xung quanh chỉ làm tốc độ bạn chậm đi.
4/ Ăn mặc gọn gàng: ăn mặc gọn gàng, sạch sẽ, lịch sự sẽ làm bạn cảm thấy thoải mái & tự tin hơn. Điều này đặc biệt quan trọng khi bạn đi phỏng vấn xin việc làm. Đừng mặc những bộ quần áo quá sặc sỡ.
5/ Phong thái khoan thai, chững chạc: những người kém tự tin thường có phong thái rụt rè, không làm chủ được mình. Bạn cần phải tập 1 phong thái đi đứng nhanh nhẹn tự tin, luôn ngẫn cao đầu (đừng ngẫn cao quá J ). Cách này tuy đơn giản nhưng rất hiệu quả, lúc mất tự tin chỉ cần hít 1 hơi dài, đi 1 vài bước nhanh nhẹn, ngẫn cao đầu, đấm tay vào không khí mấy cái như vừa ghi được bàn thắng đẹp sẽ giúp bạn tự tin lại ngay lập tức.
6/ Học tập: càng hiểu biết, bạn càng tự tin. Kiến thức là sức mạnh, càng có nhiều nó thì bạn càng mạnh hơn & càng tự tin hơn.
7/ Cơ thể cân đối: hãy tập thể dục thường xuyên để giữ cơ thể cân đối, thể trạng tốt tinh thần mới minh mẫn, tự tin & tràn đầy năng lượng.
8/ Nói chuyện với người lạ: khi sinh hoạt ở 1 tập thể đông người, thay vì nói chuyện với những người thân quen, bạn hãy tập cách bắt chuyện với những người lạ, nó giúp bạn hứng thú hơn & nhận ra rằng nói chuyện với 1 người lạ cũng không quá khó.
9/ Chia mục tiêu lớn thành những mục tiêu nhỏ hơn: những mục tiêu nhỏ hơn này bạn sẽ đạt nhanh hơn & dễ hơn, nó tạo động lực cho bạn tiếp tục đạt những mục tiêu lớn. Người mới đầu tư chứng khoán đặt mục tiêu 100%/ năm sau khi lỗ vài lần sẽ nản & bỏ cuộc. Thay vào đó, bạn hãy làm từng bước, hãy vui nếu năm nay lỗ ít hơn năm ngoái, năm sau thay vì lỗ đã có 1 khoản lời nho nhỏ.
10/ Hãy xung phong: hãy xung phong nhận 1 nhiệm vụ mới hoặc 1 dự án khó nuốt. Bạn sẽ học hỏi & tự tin lên nhiều hơn bạn nghĩ.
11/ Chơi với những người bạn tự tin: tính cách con người rất dễ lây lan. Nếu bạn chơi với 1 nhóm bạn nhỏ, 1 thời gian tất cả sẽ có chung 1 số tính cách. Vì vậy, hãy tiếp xúc thường xuyên với những người tự tin để truyền lửa cho bạn.

12/ Luyện tập thường xuyên: luyện tập những kĩ năng cần thiết để thành công. Càng luyện tập nhiều, càng giỏi & sẽ càng tự tin hơn. Thiên tài là 99% nhờ sự khổ luyện.

Chủ Nhật, 14 tháng 7, 2013

Top 5 điều hối tiếc nhất trong sự nghiệp

Trong blog của Harvard business review, Daniel Gulati đã nghiên cứu về những điều người ta cảm thấy hối tiếc nhất trong sự nghiệp của họ. Daniel đã nói chuyện với nhiều người thành công & thất bại, làm nhiều công việc khác nhau, từ Investment banker, thợ chụp ảnh, CEO…và rút ra 5 điều người ta hối tiếc nhất trong sự nghiệp như sau:

1/ Tôi ước tôi không phải làm việc vì tiền

Điều hối tiếc nhất đến từ những người có công việc tốt, được trả lương cao nhưng lại không yêu thích công việc của mình. Đến 1 ngưỡng nào đó, lương cao không còn mang lại động lực làm việc nữa. 1 investment banker than vãn: “ tôi ao ước nghỉ việc mỗi buổi sáng đi làm, nhưng tôi còn nhiều cam kết với công ty”. Một chuyên viên tư vấn khác than thở: “ tôi chán phải đối mặt với áp lực quá lớn trong công việc  mỗi ngày, nhưng tôi không biết mình có thể làm được công việc gì khác”.

2/ Tôi ước tôi đã nghỉ việc sớm hơn

Nhiều người đủ dũng cảm nghỉ việc để theo đuổi đam mê của mình lại hối tiếc rằng giá mà mình đã quyết định nghỉ việc sớm hơn. 1 nghiên cứu thống kê rằng 80% số người không hài lòng với công việc của mình nhưng vẫn không chuyển việc dù biết mình nên làm thế.

3/ Tôi ước tôi đủ tự tin để tự kinh doanh

1 nghiên cứu thống kê rằng 70% người đi làm đều mong muốn công việc hiện tại sẽ giúp ích cho sự nghiệp kinh doanh riêng của họ sau nay. Nhưng rất ít trong số họ đủ can đảm để bỏ công việc ổn định để ra kinh doanh riêng.

4/ Tôi ước tôi sử dụng thời gian học đại học hiệu quả hơn .

Học đại học cũng là 1 khoản đầu tư lớn về thời gian & tiền bạc. Nhưng không nhiều sinh viên có được lợi nhuận cao từ khoản đầu tư dài hạn này. Vì vậy nhiều người hối tiếc giá như họ đã học nhiều kiến thức & kĩ năng hơn ở trường đại học để có thể kiếm 1 công việc tốt khi ra trường.

5/ Tôi ước tôi quyết đoán hơn để bắt lấy cơ hội

Trong sự nghiệp mỗi người có rất nhiều cơ hội có thể thay đổi cuộc đời của họ, nhưng những cơ hội đó thường đến bất ngờ & cần sự quyết đoán. Nhiều người không dũng cảm & từ chối những cơ hội có thể tạo 1 bước nhảy rõ rệt trong sự nghiệp.

Còn bạn, điều gì làm bạn hối tiếc nhất trong sự nghiệp của mình?

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2013

Những lời khuyên dành cho sinh viên để có nghề nghiệp tốt

Khi bạn sắp ra trường đi làm, bạn hay hỏi trên diễn đàn hoặc hỏi những người có kinh nghiệm rằng: làm sao để kiếm được công việc analyst yêu thích, nên học MBA, CFA hay đi làm? Muốn làm ở quỹ đầu tư phải học gì?... Nếu bạn có em đang học cấp 3, đại học, bạn sẽ khuyên em bạn những gì để có lợi thế cạnh tranh rõ ràng để xin việc khi ra trường? Dưới đây là 1 số lời khuyên

1/ Hãy tham gia nhiều hoạt động ngoại khóa: càng tham gia sớm & nhiều hoạt động ngoại khóa, bạn càng có nhiều cơ hội rèn luyện nhiều kĩ năng, đặc biệt là kĩ năng lãnh đạo. Ngoài ra, bạn còn nên tham gia các cuộc thi diễn thuyết, đóng kịch, thể thao. Khả năng nói lưu loát trước đám đông là vô giá, ứng dụng trong công việc nhiều gấp mấy lần kiến thức học gạo từ sách vở, đóng kịch sẽ giúp bạn vượt ra khỏi vỏ ốc an toàn của bạn, hiểu về ứng xử, tính cách của nhiều người, trong khi đó thể thao giúp bạn có sức khỏe, kĩ luật, chiến thuật, ý chí không bỏ cuộc.

2/ Cố gắng là học sinh-sinh viên giỏi, hoặc ít nhất là nằm trong top của lớp: nhiều người nói điểm đại học không quan trọng, nhiều đứa điểm cao nhờ học trâu bò nhưng chẳng thông minh năng động gì. Vâng, chính sự trâu bò đó là điểm cộng trong mắt nhà tuyển dụng. Điểm tổng kết cao không chắc là IQ cao, nhưng nó cho thấy sự nghiêm túc & chăm chỉ với việc học. Học nghiêm túc thì làm việc cũng nghiêm túc, chăm chỉ, và ngược lại.

3/ Tham gia nhiều cuộc thi & khóa học mà bạn có thể: hãy kết thúc 4 năm đại học với các thành tích ấn tượng trong CV, tham gia thi & đoạt giải các cuộc thi học thuật, thể thao, mùa hè xanh, tập tành kinh doanh…tất cả đều khiến giá trị của bạn tăng cao hơn rất nhiều so với phần còn lại. (nhưng đừng tham gia các cuộc thi đá banh PS2 độ, bi-a độ, cá độ đá banh như mình J )

4/ Cố gắng kiếm việc làm thêm vào kì nghỉ hè: nếu được thực tập ở 1 công ty nào đó thì quá tuyệt. Mình có đứa em sinh viên năm 3 được nhận thực tập chương trình của SSI đợt rồi, 1 cơ hội quá tốt cho các sinh viên có cơ hội làm quen với môi trường làm việc chuyên nghiệp.

5/ Ráng học ở 1 trường tốt: 1 sinh viên đầu vào thấp nhưng được học ở trường tốt, bạn bè đều giỏi và có nghị lực, mục tiêu cao, giảng viên chất lượng khi ra trường sẽ khác rất nhiều so với các bạn điểm đầu vào rất cao nhưng học ở các trường có cơ chế đào tạo không tốt. Việc bạn học ở đâu rất có ý nghĩa khi xin việc làm.

6/ Hãy đi ra nước ngoài: thời sinh viên là cơ hội rất tốt để bạn thử đi nước ngoài để trải nghiệm những nền văn hóa mới lạ, nó sẽ giúp tư duy bạn thay đổi rất nhiều. Nếu bạn nói không có tiền đi thì thực chất là do bạn không năng động. Nếu không đi được ngay năm nhất thì hãy làm thêm, để dành tiền đủ để đi vào năm 3.

7/ Cố gắng làm ở những công ty lớn vài năm sau khi ra trường: được đào tạo bài bản, quen biết nhiều người giỏi, & có 1  CV tốt với vài năm làm việc trong tổ chức lớn sẽ giúp bạn rất nhiều khi chuyển việc.

8/ Đừng để công việc giết chết bạn: bạn bè và gia đình quan trọng hơn công việc. Cố gắng cân bằng giữa công việc & thời gian cho gia đình, bạn bè & cho bản thân bạn. Khi công việc quá căng thẳng & mệt mỏi, nó sẽ giết chết đam mê nghề nghiệp của bạn. Hãy chơi đá banh, ghita, tập võ hay bất cứ thú vui gì bạn thích hàng tuần để tái tạo năng lượng.

Ngoài những điều cơ bản trên, Bạn sẽ khuyên gì thêm cho em bạn & những sinh viên khác?

Thứ Sáu, 12 tháng 7, 2013

4 sai lầm khiến bạn luôn là nhà đầu tư thất bại

Làm sao để trở thành nhà đầu tư giỏi là câu hỏi phổ biến nhất trong giới đầu tư, đặt biệt là những người mới bắt đầu tập tành đầu tư. Nhưng đó là 1 câu hỏi sai lầm. Bởi hầu hết các nhà đầu tư đều không thắng được thị trường, nên rất khó để tìm được 1 công thức chiến thắng thị trường, cứ áp dụng mãi là ăn tiền mãi. Vì vậy, thay vì đặt mục tiêu trở thành nhà đầu tư giỏi như Buffet, trở thành nhà đầu tư bớt tệ hơn là mục tiêu hợp lí & khả thi. Trong đầu tư & bất cứ nghề nghiệp gì, ví dụ như chơi thể thao, người mới chơi nên tập trung tránh mắc sai lầm, các cao thủ mới nên luyện tập những sát chiêu cho riêng mình.
Dưới đây là 4 sai lầm lớn nhất mà các nhà đầu tư thất bại thường mắc phải:

1/ Không đa dạng hóa danh mục

Năm 1999, Khi các nhân viên Enron hỏi giám đốc nhân sự trong 1 cuộc họp: “ chúng tôi có nên đầu tư tất cả tiền hưu trí vào cổ phiếu Enron?  Vị giám đốc nhân sự cười & chém: “hiển nhiên, các bạn cứ tất tay vào Enrron”. Kết quả thế nào thì các bạn cũng đã biết.
Từ Enron đến General motors, Kodak hay Leman, hàng loạt các công ty to big to fail trên thế giới đều có thể phá sản. Những cổ phiếu tốt cũng có giai đoạn giảm giá liên tục, Apple cũng có lúc trượt dốc không phanh, vì vậy bạn nào tất tay vào VNM hay những best stocks khác cũng nên cân nhắc đa dạng hóa danh mục của mình.
Nhiều người nói Warren Buffett không áp dụng phương pháp bỏ trứng vào nhiều giỏ, nhưng Berkshire Hathaway của ông có 55 công ty con ở rất nhiều lĩnh vực khác nhau, từ báo chí, dược phẩm, máy bay phản lực…

2/ Trade quá nhiều

Giảm chi phí giao dịch là 1 điều tồi tệ với các nhà đầu tư, vì nó thúc đẩy họ trade quá nhiều. Các nhà đầu tư mới tham gia thị trường thường có xu hướng quá tự tin vào kĩ năng, kiến thức của bản thân, với niềm tin rằng mình sẽ dễ dàng chiến thắng thị trường. Đặt biệt có 1 sự kiện thường lặp lại, đó là những người mới vào thị trường thường chiến thắng trong 1 vài trade đầu. Giống như khi vào sòng bạc, nhà cái thường cho con bạc thắng vài ván để họ hăng máu. Tiền thắng bạc là tiền trên trời rơi xuống nên họ take risk rất cao ở những ván sau. Những điều này có vẻ đơn giản nhưng ngẩm lại tôi đều mắc phải & thua lỗ lớn vì những điều đơn giản đó. Cổ phiếu đầu tiên tôi mua là VSP, lãi 40% trong 2 tuần ở trade đầu tiên. Woa, không ngờ thị trường CK dễ kiếm tiền thế, lão phu ta đây, trình độ thế này phân tích chứng khoán thì chuẩn không phải chỉnh. Phải nghiên cứu chiến lược lướt sóng 2 tuần kiếm 40%. Cứ thế những cú lướt sóng của tôi sau này đã làm tài khoản bốc hơi liên tục.
Nhiều nghiên cứu của các nhà kinh tế các nhà đầu tư càng nhiều kinh nghiệm càng kiếm được nhiều tiền hơn. Và 1 đặc điểm chung của nhiều nhà đầu tư kinh nghiệm là họ trade rất ít. Ví dụ ở TTCK VN, dù downtrend hay uptrend thì năm nào cũng có 2 sóng lớn đủ để kiếm ăn &rút lui an toàn. Các nhà đầu tư kinh nghiệm thường tập trung canh 2 sóng này, thời gian còn lại nghỉ ngơi, nghiên cứu hoặc làm việc khác. Trong khi đó các nhà đầu tư dở thường thích phải ăn tất, sóng to sóng bé, đầu cá thân cá đuôi cá gì cũng phải bắt được hết. Trên diễn đàn Vfpress có rất nhiều nhà đầu tư chuyên nghiệp. 1 Vfer nổi bật là anh Comaogaotien. Nếu để ý bạn sẽ thấy cả 2 sóng lớn đầu năm 2012 & 2013, anh không phải là người bắt được đáy & rất thận trọng khi vào tiền. Đến khi có tín hiệu tốt a mới bắt đầu tham gia, & rút ra ngay khi có những dấu hiệu cảnh báo, mặc cho sau đó TTCK vẫn tăng thêm khoản 15% nữa trước khi rớt mạnh. Đó là cách đánh của nhà đầu tư chuyên nghiệp, nghĩ tới việc giữ tiền trước rồi mới nghĩ tới lợi nhuận.

3/ Lên kế hoạch dài hạn nhưng lại hành động theo tư tưởng ngắn hạn

Nhiều nhà đầu tư có những mục tiêu đầu tư dài hạn để nghỉ hưu sớm, mua nhà, mua xe mới, cho con đi học… nhưng thường hay động theo cảm xúc ngắn hạn. Khi thị trường lên, họ sẵn sàng tất tay những khoản tiền đầu tư dài hạn để ăn con sóng ngắn hạn. Khi thị trường xuống vài phiên, họ lại hoảng loạn bán tháo cổ phiếu, trong khi đó đối với khoản đầu tư dài hạn thì không cần quá bận tâm đến diễn biến thị trường ngắn hạn. Anh @Linhbach sẵn sàng chấp nhận giá chứng khoán giảm 30-50% & rất kỉ luật với cổ phiếu đầu tư dài hạn của mình. Đó là cách chơi chuyên nghiệp & chiến thắng được cảm xúc của mình khi thị trường đi xuống. Trader & investor tham gia TTCK bị cảm xúc chi phối quá nhiều rất khó thành công.

4/ Hỏi sai câu cần hỏi


Trên truyền thông, internet, các diễn đàn, room skype có rất nhiều chuyên gia, & câu hỏi trồng cây gì nuôi con gì, mua khi nào bán khi nào xuất hiện khắp nơi trong TTCK. Thay vì hỏi như vậy, bạn nên hỏi cách các cao thủ phân tích, nhận định, hỏi về xu hướng dài hạn để học tập & phát triển bản thân. Còn việc mua cổ phiếu nào còn tùy thuộc vào mức độ chấp nhận rủi ro & khả năng của mỗi nhà đầu tư. Không cao thủ nào có thể tư vấn cho bạn cả đời. Hãy nhớ mục tiêu dài hạn của chúng ta khi bước vào thị trường là trở thành 1 nhà đầu tư bớt tệ hơn so với lúc đầu, có thể tự dựa vào kiến thức & suy luận của mình để kiếm tiền. Cần hỏi bản thân những câu hỏi như: nếu trade đúng tôi được bao nhiêu, trade sai tôi mất bao nhiêu? Tại sao tôi nên đầu tư vào lúc này? Đó là những câu hỏi quan trọng nhất mà các cao thủ phím hàng không thể trả lời thay bạn được.  

Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2013

Định giá quyền chọn bằng Black-Scholes model

Đối với trader & các nhà đầu tư phổ thông, giá trị quyền chọn gần như chẳng có ý nghĩa gì trong việc phân tích đầu tư. Nhưng với nhà đầu tư theo trường phái phân tích cơ bản, đặc biệt với dân công nhân tài chính thì tìm hiểu chút ít về option chắc chắn sẽ có đất để áp dụng.

Giả sử bạn định giá equity của HAG ra 17,5 ngàn tỉ VND, khối lượng cổ phiếu là 700tr cổ, thì fair value 1 CP HAG là 25k/cổ. Nhưng phép tính này chỉ đúng khi toàn bộ equity của HAG chỉ là common equity. Còn nếu HAG có loại equity khác như warrants, quyền mua cổ phiếu cho nhân viên, trái phiếu chuyển đổi, bạn phải trừ giá trị của đống options này ra trước khi định giá equity. ESOP & trái phiếu chuyển đổi là 2 loại options mà nhiều cổ phiếu Bluechips ở TT VN đã sử dụng.

Đối với trái phiếu chuyển đổi, trái chủ có quyền chuyển đổi trái phiếu thành 1 số lượng cổ phiếu nhất định. Tỉ lệ chuyển đổi (conversion ratio) nghĩa là 1 trái phiếu đổi được bao nhiêu cổ phiếu. Market conversion value nghĩa là giá trị cổ phiếu chuyển đổi được nếu trái chủ quyết định chuyển đổi ngay. Giá trị này lớn hơn giá trị hiện tại của trái phiếu gọi là Conversion premium. Quyền chuyển đổi  này chính là 1 call option trên underlying asset là cổ phiếu. Giá trị của Option bị tác động bởi các yếu tố sau:

-Giá underlying asset: nếu cổ phiếu công ty tăng giá thì quyền chọn mua ở 1 giá cố định sẽ càng có giá trị hơn.
-Tỉ lệ chuyển đổi
-Thời hạn của trái phiếu chuyển đổi: thời gian càng dài thì quyền chọn càng có giá trị
-Biến động giá cổ phiếu: biến động càng lớn thì quyền chọn càng có giá trị
-Lãi suất: lãi suất tăng thì quyền chọn mua cổ phiếu sẽ càng giá trị
-Cổ tức: cổ tức làm giảm tiềm năng tăng giá của cổ phiếu & giảm giá trị của option

Mô hình định giá quyền chọn phổ biến nhất hiện nay là mô hình Black-Scholes (1973). Mô hình này đoạt giả Nobel kinh tế năm 1997, mặc dù bị nhiều chuyên gia có tiếng buộc tội gây ra cuộc khủng hoảng năm 1987 tại Mỹ. 1 bài viết rất hay về option & mô hình BS ở đây. Công thức BS có vẻ phức tạp nhưng rất hữu ích trong việc định giá quyền chọn. Bạn hoàn toàn có thể tự định giá 1 quyền chọn trong trái phiếu chuyển đổi của MSN, HAG, GMD, FPT…bằng 1 vài phép tính excel không quá phức tạp, hoặc có thể vào trang web này để nhờ nó tính giúp. Chính vì sự đơn giản trong việc tính giá option như vậy, BS có thể coi là người khai sinh ra tài chính hiện đại. Với phép tính đơn giản này, thị trường chứng khoán phái sinh phát triển như vũ bão, nhiều chiến lược đầu tư phức tạp được các chuyên gia tài chính mày mò ra nhờ có BS model mới áp dụng được. Công thức định giá quyền chọn bằng BS như sau:


Chỉ cần thu thập đủ các dữ liệu về giá cổ phiếu, giá thực hiện quyền chọn, biến động giá cổ phiếu, lãi suất phi rủi ro, dividend yield, life của trái phiếu chuyển đổi, sau đó nhập vào excel tính toán theo công thức là xong. 

Chủ Nhật, 12 tháng 5, 2013

Tăng khả năng đậu CFA nhờ phân tích kết quả quá khứ


Triết lý gia nổi tiếng người Mỹ gốc Tây Ban Nha George Santayana nói một câu rất nổi tiếng: “Người không nhớ quá khứ chắc chắn sẽ tái phạm lỗi lầm” ("Those who cannot remember the past are condemned to repeat it"). Vì vậy, phân tích kết quả các kì thi CFA trước đây là 1 cách hay để tăng khả năng PASS trong kì thi sắp tới. Tại sao bạn không sử dụng thống kê sẳn có này để biết được điểm khác biệt giữa những người đậu & rớt là ở những môn học nào!

Level 1

Dựa vào kết quả kì thi CFA level 1 tháng 12/2012 (và cả tháng 6/2012), vấn đề lớn nhất của các Candidate vẫn là các môn Quantitative Methods, Derivatives, Economics, Fixed Income. Trừ Derivatives ra, các môn còn lại trong list trên đều có tỉ trọng khá cao. Vì vậy nếu bạn thấy không chắc ở các môn trên thì hãy dành thêm thời gian ôn tập lại. Quantitative Methods, Derivatives, Economics, Fixed Income là những kiến thức rất quan trọng & thường xuyên xuất hiện ở các level sau. Có thể vì lí do này mà CFA Institute test các môn này khó hơn nhằm tạo nền tảng cho các ứng viên học tiếp level 2 & 3. Khoảng cách giữa PASS & Band 10 đối với level 1 là 3-4%, tương đương với 8-11 câu đúng.

Level 2

Độ khó ở Level 2 có vẻ trải đều hơn level 1. FRA, Equity, Fixed Income là những môn khó & cũng có tỉ trọng cao nhất, quyết định đậu rớt của Level 2. Bên cạnh đó,  Derivatives, Economics and Quantitative Methods vẫn là các môn gây khó khăn nhất cho ứng viên. Đặc biệt chú ý đến môn Derivatives, đối với level 1 tỉ trọng môn này thấp nên không học chắc có thể đánh lụi không sao. Nhưng lên level 2 thì độ khó & tỉ trọng tăng lên nên cực kì nguy  hiểm. Tỉ lệ thí sinh dưới 50% môn Derivatives là cao nhất!

Level 3

Đối với level 3 thì khó nhằn nhất là phần thi viết essay buổi sáng, khi mà đến 96% thí sinh làm bài essay tồi hơn rất nhiều so với làm item set. Hơn nữa, những chiến binh sau khi lọt qua được 2 vòng thi khó khăn trước đó đã thể hiện được sự xuất sắc, sung mãn & quyết tâm cao độ để 1 đập ăn quan nên cạnh tranh rất khốc liệt. Ở Level 3 khoảng cách giữa đậu & rớt chỉ có 1.4%, rớt band 10 thì buồn hơn con chuồn chuồn.
Nhìn vào biểu đồ thì Derivatives & Fixed Income lại 1 lần nữa là những môn tỉ lệ rớt cao nhất. Song song với nó, Portfolio managerment (Individual & Institute) là 2 môn học mới & có tỉ lệ rớt cao ngang ngửa D & F. Vì vậy, ngoài việc ngoài việc ôn bài tập Fixed & Derivatives thật chắc, việc rèn luyện cách viết IPS cho Institutional & Individual investors  sẽ quyết định đậu rớt của level 3. 

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2013

Học MBA hay CFA tốt hơn?


Sau khi ra trường, nên học tiếp MBA hay học CFA là 1 đề tài được tranh luận khá nảy lửa trong giới tài chính ở Việt Nam & cả nước ngoài. Học cái gì tốt hơn còn tuỳ thuộc vào background & mục tiêu nghề nghiệp của mỗi người. MBA cũng có 1 số chương trình tập trung hoàn toàn vào finance, nhưng nhìn chung MBA chú trọng hơn đến kiến thức chung về kinh doanh, quản trị. Trong khi đó CFA tập trung đào tạo kiến thức chuyên về phân tích tài chính, quản trị danh mục đầu tư. Vì vậy ứng viên CFA chủ yếu làm ở các quỹ đầu tư, công ty chứng khoán & tư vấn đầu tư. Điểm khác biệt cơ bản giữa ôn thi CFA và theo đuổi một khóa học MBA chính là CFA cho phép thí sinh không cần đến lớp, vừa tự học vừa làm, còn với một khóa MBA ít nhất bạn phải dành một nửa buổi để đến lớp (với hình thức học bán thời gian) hoặc cả ngày (với hình thức học chính quy).
Nếu bạn đang phân vân nên học CFA hay MBA, hãy cân nhắc những yếu tố sau:
1/ Chi phí
Để thi lấy chứng chỉ CFA, thí sinh cần vượt qua ít nhất 3 vòng thi, và khoảng $2500 tiền đăng ký và tiền lệ phí cho 3 vòng nếu đăng ký sớm (Hiệp hội CFA quốc tế áp dụng quy định giảm chi phí cho những đăng ký sớm, và giá sẽ cao dần khi càng sát thời hạn thi). Tài liệu ôn thi được đã bao gồm trong chi phí đăng ký và thí sinh bắt buộc phải trả. Tuy nhiên, thực tế cho thấy ngoài tài liệu ôn thi, phần lớn thí sinh có nhu cầu tham gia các khóa học luyện thi, tài liệu tham khảo, và các phần mềm bổ trợ nữa. Như vậy thí sinh sẽ mất khoàng $4000-$5000 để vượt qua 3 vòng. Con số nầy tuy không nhỏ nhưng “mềm” hơn rất nhiều so với một khóa học MBA tại nước ngoài có giá dao động từ $30,000 đến trên $100,000 phụ thuộc vào trường cũng như chi phí sinh hoạt tại nơi bạn theo học.

2/ Thời gian
Để hoàn thành ba vòng thi CFA, thí sinh cần ít nhất từ 2 năm, do quy định của Hiệp hội CFA quốc tế về thời gian giữa các vòng thi, thí sinh có thể thi level 1 vào tháng 12, level 2 vào tháng 6 năm sau và level 3 một năm sau đó. Thời gian này sẽ dài hơn nếu thí sinh thi level 1 vào tháng 6, hoặc phải thi lại (theo thống kê từ Hiệp hội, tỉ lệ đỗ level 1 CFA trung bình 46%, 41% với level 2 và 49% với level 3). Ngoài ra thí sinh còn cần ít nhất 4 năm kinh nghiệm để và ký các cam kết về đạo đức nghề nghiệp để được chính thức nhận chứng chỉ. Trong khi đó trung bình khóa học MBA kéo dài từ 1 năm rưỡi đến 2 năm.

3/ Lương thưởng
Có lẽ điều mọi người quan tâm nhất là học cái nào thì đi làm sẽ được trả lương thưởng cao hơn. Để có thông tin đó, Business Insider đã khảo sát & thống  kê kết quả như sau:

Như bạn thấy, CFA charterholders thường kiếm được nhiều hơn người chỉ có MBA 1 khoảng tiền là 27,000$ mỗi năm, và nhiều hơn 13,000$ so với những người chỉ có MBA chuyên về tài chính.(có luôn cả 2 bằng thì bá đạo luôn, khỏi so sánh làm chi :D )

Tiến sĩ Giang Lê, cao thủ nhất đẳng về kinh tế học & tài chính ở Việt Nam cũng từng viết 1 note ngắn về CFA vs MBA. Tiến sĩ nhận xét: “Thực ra học gì ra làm cũng được, miễn là bạn có đầu óc và chịu khó. Nhưng có CFA sẽ dễ xin việc trong finance industry (investment banking) hơn MSF. Finance MBA ở giữa nhưng cũng tùy thuộc vào B-school bạn theo học. Nhưng MBA có advantage là có nhiều lựa chọn nghề nghiệp hơn CFA và MSF. Nếu có BA/BS ở nước ngoài thì chỉ cần CFA, có thể học song song với BA/BS, thì 22-23 tuổi đã có thể bắt đầu đi làm trong finance industry rồi. Nếu giỏi 27-28 tuổi có thể lên manager và lương bổng chắc chắn cao hơn những anh PhD/MS/MA + everything.”

Ý kiến cá nhân e: nếu bạn có học bổng du học MBA thì không phải suy nghĩ. Còn nếu bỏ tiền túi đi học (không phải ai cũng có điều kiện đi), khoảng thời gian du học sẽ rất tuyệt vời, bạn được học tập trong môi trường tốt, làm thêm đôi chút kiếm tiền đi du lịch, tận hưởng tuổi trẻ, tiếng Anh như gió. Nhưng khi đeo lon MBA về nước xin việc thì đúng là đời không như là mơ. Với TT tài chính cạnh tranh như hiện nay thì kinh nghiệm làm việc quan trọng hơn bằng cấp. Bạn phải chấp nhận thực tế là đeo lon MBA với kinh nghiệm bằng zero nếu làm tài chính đầu tư thì cũng phải bắt đầu công việc ở vị trí binh bét như 1 bạn mới tốt nghiệp đại học, mức lương khởi điểm cũng không được như kì vọng của 1 MBA (e tính mặc bằng chung, không tính các siêu sao nằm trong top của trường, tất nhiên sẽ được trải thảm đỏ). Trong khi đó học CFA có điểm lợi là vừa học vừa làm, nếu hên hên thi cử tốt đẹp thì chịu đau khổ 3 kì thi là xong chương trình, lại có kinh nghiệm làm việc & 1 ít vốn liếng tích luỹ sau 3 năm vừa làm vừa học. 1 điểm lớn mà CFA thua MBA đó là 2 năm kinh nghiệm sinh sống & học tập ở nước ngoài là vô cùng giá trị, nó thay đổi tư duy con người rất nhiều. Các bạn học MBA có 1 điểm chung là rất tự lập, thích nghi tốt & làm việc rất hiệu quả.

Thứ Tư, 1 tháng 5, 2013

Goldman Sachs giải thích công thức tính ROE mà mọi CFA Test Taker cần phải biết


ROE (Return on Equity) là 1 concept cơ bản & thường được test trong các kì thi CFA level 1 & 2
1 cách tính đơn giản, ROE bẳng Net Income chia cho giá trị sổ sách của vốn chủ sở hữu (equity) của công ty. Tuy nhiên, nếu tính đơn thuần như vậy thì ROE không nói lên được nhiều điều về hoạt động & cấu trúc vốn của công ty.
Vì vậy chuyên viên phân tích cần tách chỉ số ROE thành nhiều yếu tố. 1 trong số đó là mô hình Dupont 5 yếu tố.
Goldman Sachs vừa giải thích công thức ROE 5 yếu tố trong 1 report gửi cho khách hàng của mình như sau:



Mô hình Dupont tách ROE thành 5 yếu tố sau:
1/ Operating margin: đây là tỉ số EBIT/Sale. Tỉ số này càng cao, khả năng sinh lợi của công ty càng cao.
2/ Asset turnover: tỉ số này đánh giá hiệu quả sử dụng tài sản của công ty, cho biết 1 đồng đầu tư vào tài sản tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu.
3/ Chi phí lãi vay: tỉ số này so sánh lãi vay của công ty so với tổng tài sản. Tỉ số này không được sử dụng thường xuyên trong việc phân tích đòn cân nợ của công ty.
4/ Asset/Equity: tỉ số này đánh giá đòn cân nợ (leverage) của công ty. Tỉ số này cao nghĩa là công ty đã dùng nhiều nợ để tài trợ cho việc mua sắm tài sản.
5/ Thuế: yếu tố này để cho biết mức thuế suất hiệu dụng của công ty.
Như bạn thấy, tách ROE thành 5 yếu tố thế này sẽ cho người đọc biết nhiều thông tin hơn về hoạt động của công ty, không chỉ  dừng lại ở lợi nhuận và vốn chủ sở hữu.
Mô hình Dupont thường được test trong kì thi CFA, vì vậy các nhà đầu tư có ý định thi CFA nên biết công thức này.